Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ:
Cải cách hành chính công có bước chuyển rõ nét, góp phần bảo đảm hiệu quả thu, chi, sử dụng ngân sách
Đánh giá về những nỗ lực của Bộ Tài chính trong thực hiện nhiệm vụ tài chính- ngân sách năm 2017, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ nhấn mạnh: “Bộ Tài chính là một trong những cơ quan thuộc Chính phủ đi đầu trong công tác cải cách hành chính (CCHC), tạo thuận lợi cho thương mại theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ. Công tác CCHC công đã có bước chuyển rõ nét, góp phần bảo đảm hiệu quả thu, chi, sử dụng ngân sách; thực hiện có hiệu quả quy định về quyền tự chủ của cơ quan trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính”.
PV: Thưa Phó Thủ tướng, năm 2017 là năm Chính phủ đạt nhiều mục tiêu trong điều hành kinh tế, trong đó điểm nhấn quan trọng nhất là mục tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 6,81%, cùng với đó bội chi ngân sách lần đầu tiên trong 10 năm được giữ đúng kế hoạch, nợ công trong giới hạn được Quốc hội cho phép và có xu hướng giảm, lạm phát cơ bản được giữ vững… Theo Phó Thủ tướng, đâu là những nguyên nhân giúp chúng ta đạt được các mục tiêu trên?
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ: Năm 2017 là năm thứ hai triển khai các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội về thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016- 2020. Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, trong đó có ngân sách nhà nước (NSNN), các nhiệm vụ mà Quốc hội giao, trong nỗ lực, quyết tâm xuyên suốt từ đầu nhiệm kỳ là xây dựng “Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp (DN)”; Chính phủ đã xác định chủ đề của năm 2017 là: “Tăng cường kỷ cương, đề cao trách nhiệm, thi đua sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững” để các cấp, các ngành, địa phương và DN tập trung triển khai thực hiện bằng những giải pháp chỉ đạo quyết liệt, sát sao, linh hoạt, phù hợp thực tiễn.
Bước vào năm 2017, tình hình kinh tế - xã hội phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Trước tình hình đó, Chính phủ kiên định mục tiêu tăng trưởng, chỉ đạo xây dựng kịch bản hàng quý cho từng ngành, lĩnh vực; thảo luận, thống nhất tại phiên họp Chính phủ hàng tháng và yêu cầu các cấp, ngành điều hành quyết liệt, có biện pháp cụ thể, phát triển mạnh các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ, du lịch...
Cùng với đó là việc tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo mọi thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh; tổ chức Hội nghị Chính phủ với DN và nhiều hội nghị, diễn đàn về phát triển kinh tế ngành, vùng, xúc tiến thương mại, đầu tư, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển DN, tăng cường thu hút đầu tư tư nhân và nước ngoài; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; phòng chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm,...
Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao; khắc phục một bước tình trạng thiếu kỷ luật kỷ cương, nói không đi đôi với làm. Tổ chức tiếp nhận thông tin, lắng nghe và giải quyết kiến nghị, phản ánh của người dân, DN qua Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ. Về cơ bản, người dân và DN đồng tình với việc giải quyết của cơ quan nhà nước.
Với sự quyết tâm hành động của Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, chúng ta đã hoàn thành toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà Quốc hội giao, trong đó có 5/13 chỉ tiêu vượt kế hoạch. Đạt được những kết quả tăng trưởng đáng khích lệ trong năm 2017 là nhờ kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, dưới 4%; giá trị đồng tiền Việt Nam ổn định; tín dụng tăng đều, lãi suất cho vay giảm 0,5-1%. Khu vực công nghiệp đã lấy lại vai trò là động lực của tăng trưởng; khu vực dịch vụ tăng mạnh. Thị trường trong nước và xuất khẩu phát triển tốt; việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng một cách mạnh mẽ, chú trọng đi vào tăng chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh được cải thiện (môi trường kinh doanh tăng 14 bậc và chỉ số năng lực cạch tranh tăng 5 bậc so với năm 2016)...
Những kết quả và thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước sẽ tiếp tục được Chính phủ phát huy hiệu quả hơn trong năm 2018 - năm có tính chất bản lề để thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 với phương châm hành động là: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”.
PV: Trên diễn đàn Quốc hội và nhiều hội nghị của Chính phủ, Phó Thủ tướng luôn nhấn mạnh việc siết chặt kỷ luật tài khóa; phải coi tiết kiệm là quốc sách; chi tiêu phải trong khả năng của nền kinh tế; vay nợ phải trong khả năng trả nợ, không tăng trần nợ công… Phó Thủ tướng có đánh giá gì về việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật tài chính - ngân sách của các bộ, ngành, địa phương trong thời gian qua?
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ: Năm 2017 là năm đầu tiên Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW Hội nghị Trung ương 4 khóa XII ngày 18/11/2016 về cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững với mục tiêu cụ thể là: Giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ huy động vào ngân sách bình quân khoảng 20-21% GDP, tổng thu tăng 1,65 lần so với giai đoạn trước và cơ cấu lại các khoản thu từ ngân sách, trong đó giảm thu từ dầu thô, tăng thu từ nội địa, giữ mức chi ngân sách ở khoảng 24-25% GDP, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 25-26% và chi thường xuyên ở dưới mức 64%, giảm bội chi tới năm 2020 là dưới 4% GDP; quy mô nợ công không quá 65%, nợ Chính phủ không quá 55%, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50%.
Theo đó, Chính phủ đã quán triệt thực hiện chủ trương cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm hiệu quả, toàn diện, công bằng, bền vững, động viên hợp lý các nguồn lực. Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí; xác định tiết kiệm là quốc sách hàng đầu, chỉ chi trong khả năng của nền kinh tế và chỉ vay trong khả năng trả nợ. Giải quyết hài hòa các vấn đề cấp bách trước mắt và giải pháp căn cơ lâu dài, siết chặt kỷ cương, tăng cường trách nhiệm giải trình trong thu- chi ngân sách, sử dụng vốn vay và xử lý nợ công, hạn chế và tiến tới xoá bỏ cơ chế xin- cho.
Cùng với đó, Chính phủ đã chỉ đạo và ban hành hàng loạt các giải pháp đồng bộ về quản lý thu, chi NSNN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát. Chính vì vậy, nhờ có giải pháp đồng bộ và những nỗ lực, quyết tâm của các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, đến hết năm 2017 thu cân đối NSNN ước đạt 1.283,2 nghìn tỷ đồng, vượt 71 nghìn tỷ đồng so dự toán, tăng 43,7 nghìn tỷ đồng so báo cáo Quốc hội.
Về chi NSNN, Bộ Tài chính đã sớm có văn bản hướng dẫn các bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai dự toán chi NSNN năm 2017 tích cực, chủ động, tiết kiệm triệt để các khoản chi ngay từ khâu phân bổ dự toán và trong quá trình thực hiện, hạn chế tối đa việc đề nghị bổ sung kinh phí, ứng trước dự toán năm sau; thực hiện điều hành, quản lý, sử dụng nguồn dự phòng các cấp chặt chẽ, tạm giữ lại 50% dự toán dự phòng ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (đối với những địa phương dự kiến giảm thu) để chủ động xử lý khi nguồn thu NSNN giảm lớn... Đồng thời, tiếp tục rà soát, trình cấp có thẩm quyền bổ sung, ban hành các chính sách, chế độ chi phù hợp với thực tiễn; tăng cường kiểm soát chi NSNN chặt chẽ, đúng chế độ; đẩy mạnh công tác thanh tra tài chính - ngân sách...; qua đó từng bước tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN.
Bội chi NSNN năm 2017 được giữ trong mức đánh giá báo cáo Quốc hội (174,3 nghìn tỷ đồng, bằng 3,48% GDP thực hiện). Trên cơ sở kết quả thu và cắt giảm các nhiệm vụ chi chưa thực sự cần thiết, chậm triển khai và sử dụng nguồn lực tại chỗ theo quy định, cân đối ngân sách trung ương và các địa phương cơ bản được đảm bảo.
Nhìn chung, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã nghiêm túc tổ chức triển khai các giải pháp đã đề ra; thực hiện rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi; triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên; thực hiện mua sắm tài sản công theo đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định; hạn chế mua sắm xe ô tô công và trang thiết bị đắt tiền; đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện điều chỉnh tăng mức lương cơ sở lên 1,3 triệu đồng/tháng từ ngày 1/7/2017. Đánh giá chung, các bộ, ngành và địa phương đã nghiêm túc chấp hành chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính, chi trong phạm vi dự toán được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi; rà soát, sắp xếp, tiết kiệm chi thường xuyên; mua sắm tài sản theo đúng chế độ quy định; đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện điều chỉnh tiền lương, các chính sách an sinh xã hội, chi đầu tư phát triển...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thuận lợi căn bản, cũng còn nhiều khó khăn, thách thức; công tác quản lý thu NSNN ở một số địa bàn, lĩnh vực chưa quyết liệt, chưa theo sát tình hình thực tiễn, diễn biến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp; số vượt thu nêu trên là của ngân sách địa phương, chủ yếu là vượt thu tiền sử dụng đất; tuy nhiên, do không bù trừ giữa các địa phương, nên không kể tiền sử dụng đất và thu xổ số kiến thiết, vẫn còn một số địa phương giảm thu cân đối ngân sách địa phương; một số khoản thu trực tiếp từ hoạt động sản xuất - kinh doanh, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan và chủ quan, mặc dù tăng so với thực hiện năm 2016, nhưng không đạt dự toán và thấp hơn mức báo cáo Quốc hội.
Ngoài ra, nợ đọng thuế có khả năng thu còn lớn; giải ngân vốn đầu tư công còn chậm; việc phân bổ, sử dụng vốn vay còn dàn trải, hiệu quả đầu tư một số chương trình, dự án thấp; tình trạng chi sai quy định, vượt tiêu chuẩn định mức vẫn còn xảy ra ở một số đơn vị; tiến độ tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn đầu tư còn chậm so với yêu cầu đề ra.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2018, Chính phủ đề nghị các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2018 theo nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ; tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, góp phần tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan, đơn vị, cá nhân và doanh nghiệp, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính.
PV: Thưa Phó Thủ tướng, Phó Thủ tướng đánh giá như thế nào về công tác CCHC của ngành Tài chính thời gian qua? Đồng thời, xin Phó Thủ tướng cho biết một số chỉ đạo định hướng lớn của Chính phủ để công tác CCHC ngày càng hiệu quả hơn nữa trong năm 2018?
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ: Bộ Tài chính là một trong những cơ quan thuộc Chính phủ đi đầu trong công tác CCHC, tạo thuận lợi cho thương mại theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ. Công tác CCHC công đã có bước chuyển rõ nét, góp phần bảo đảm hiệu quả thu, chi, sử dụng ngân sách; thực hiện có hiệu quả quy định về quyền tự chủ của cơ quan trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Bộ Tài chính đã ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ với 47 nhóm nhiệm vụ, 87 giải pháp và 175 sản phẩm đầu ra; chương trình hành động triển khai thực hiện Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6/6/2017 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp; triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến 946 thủ tục.
Mở rộng hệ thống khai thuế qua mạng; kết nối thông tin nộp thuế điện tử giữa các cơ quan thuế, hải quan, kho bạc và các ngân hàng thương mại. Mở rộng hoàn thuế điện tử, các dịch vụ điện tử đối với cá nhân, tổ chức. Thực hiện thủ tục hải quan điện tử và triển khai cổng thanh toán điện tử, hệ thống VNACCS/VCIS trên toàn quốc. Cơ chế một cửa quốc gia đã kết nối được 11 bộ, ngành. Thí điểm kết nối giữa cơ quan hải quan và doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng tại Hải Phòng nhằm giảm thời gian thông quan hàng hóa và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan. Triển khai vận hành Hệ thống TABMIS thông suốt, hiệu quả, góp phần quản lý tập trung, giảm thiểu TTHC trong giao dịch thu, chi ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách, chủ đầu tư; đồng thời đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin kịp thời cho công tác quản lý và điều hành ngân sách ở trung ương và các địa phương.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực thuế, hải quan và các lĩnh khác được Bộ Tài chính đặc biệt quan tâm, đạt được nhiều kết quả qua việc cung cấp dịch vụ công cấp độ 3, 4, kê khai, nộp, quản lý thuế điện tử, thực hiện cơ chế một cửa quốc gia, kết nối kỹ thuật một cửa ASEAN.
Với những nỗ lực trên, ngành Tài chính đã góp phần quan trọng đưa môi trường kinh doanh của Việt Nam trong 2 năm qua đã tăng 23 bậc, đứng thứ 68/190 nền kinh tế; năng lực cạnh tranh quốc gia cũng tăng 5 bậc so với năm 2016, đứng thứ 55 trên tổng số 137 quốc gia, vùng lãnh thổ được xếp hạng. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, đóng góp vào kết quả cải thiện môi trường kinh doanh nêu trên, phải kể đến chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội (từ xếp hạng 167 lên 86), tiếp cận điện năng (từ xếp hạng 96 lên 64)... Về thủ tục hải quan, đặt mục tiêu cắt giảm 50% thủ tục kiểm tra chuyên ngành.
Trong thời gian tới, ngành Tài chính cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hai ngành quan trọng chủ chốt là Thuế và Hải quan, nhằm tiếp tục nâng cao chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh, tiếp tục cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong đó, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện cắt giảm, đơn giản hoá các thủ tục thuế, hải quan, kiểm tra chuyên ngành vốn đang tạo ra nhiều gánh nặng về chi phí, thời gian thực hiện của doanh nghiệp; đẩy mạnh liên thông giữa các thủ tục, xác định và thực hiện nghĩa vụ tài chính với các thủ tục chuyên ngành như đất đai, xây dựng; tập trung triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông và bổ sung, mở rộng danh mục các TTHC thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia; chú trọng hoạt động phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong ngành Tài chính.
PV: Thưa Phó Thủ tướng, mặc dù kinh tế đất nước đạt nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, trong năm qua thiên tai, bão lũ xảy ra liên tục, gây nhiều hậu quả nặng nề tại nhiều địa phương trên khắp các vùng miền. Xin Phó Thủ tướng có một vài đánh giá về việc thực hiện công tác an sinh xã hội của Chính phủ thời gian qua và mục tiêu định hướng của công tác này trong thời gian tới?
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ: Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta gần đây luôn nhấn mạnh: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đồng thời “thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước và hiện nay, nước ta đang phấn đấu đến năm 2020 hệ thống an sinh xã hội sẽ bao phủ khắp toàn dân để không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, quyết tâm giảm nghèo bền vững; thực hiện phát triển bao trùm để mọi người dân đều được hưởng lợi, hạn chế tối đa gia tăng bất bình đẳng xã hội.
Thời gian qua, công tác an sinh xã hội là một nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, được triển khai sâu rộng trong toàn bộ hệ thống. Theo đó, nếu như năm 2012 tổng chi cho an sinh xã hội bằng 5,88% GDP thì đến năm 2015 con số này tăng lên khoảng trên 6,6% GDP và 2017 ước khoảng gần 8,58% GDP. Mặc dù trong điều kiện kinh tế khó khăn, nhưng chính sách và các khoản chi dành cho an sinh xã hội không bị cắt giảm; các chính sách xã hội được thực hiện hiệu quả...
Về một số định hướng trong thời gian tới, cần cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân vào năm 2020, bảo đảm chăm lo cho người có công; cho người dân tiếp cận đến các chính sách việc làm; bố trí nguồn lực thực hiện chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện các chương trình, chính sách cải thiện đời sống nhân dân, nhất là giảm nghèo; tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”; tham gia bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tăng cường các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu, từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng của nhân dân.
Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý; phối hợp đồng bộ chính sách an sinh xã hội với các chính sách kinh tế - xã hội khác, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng và vùng đặc thù.
Tăng cường huy động các nguồn lực cho chính sách an sinh xã hội. Tăng chi NSNN về an sinh xã hội đạt duy trì tối thiểu mức trung bình khu vực Đông Nam Á (7% GDP) kết hợp với huy động đóng góp của người dân, doanh nghiệp và xã hội cho an sinh xã hội. Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đa dạng các mô hình an sinh xã hội, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham gia của cộng đồng (các đoàn thể địa phương, tổ chức phi chính phủ, gia đình, dòng họ, cá nhân...) trong việc cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, thực hiện các hoạt động nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những đối tượng đặc thù. Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm của các nước trong xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
PV: Xin trân trọng cảm ơn Phó Thủ tướng!