Cần làm gì để được hưởng chính sách giảm tiền thuê đất năm 2021?

Theo Thùy Linh/haiquanonline.com.vn

Cơ quan Thuế vừa có hướng dẫn giúp người nộp thuế bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 được hưởng chính sách giảm tiền thuê đất năm 2021 của Chính phủ.

Ảnh: Internet.
Ảnh: Internet.

Năm 2021, hoạt động của doanh nghiệp, người dân vẫn đang phải đối mặt với không ít thách thức, trong đó có diễn biến phức tạp của dịch COVID-19.

Để tiếp tục hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân vượt qua khó khăn và thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã ban hành theo thẩm quyền một số giải pháp để tiếp tục hỗ trợ, trong đó có giải pháp giảm 30% tiền thuê đất trong năm 2021 cho các đối tượng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19 từ ngày 1/1/2021 đến hết ngày 31/12/2021.

Để tạo thuận lợi cho người nộp thuế tiếp cận và được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Cục Thuế Hà Nội vừa có hướng dẫn hồ sơ và thủ tục cụ thể hồ sơ và thủ tục giảm tiền thuê đất.

Về hồ sơ giảm tiền thuê đất, theo Quyết định số 27/2021/QĐ-TTg, hồ sơ giảm tiền thuê đất bao gồm: Giấy đề nghị giảm tiền thuê đất năm 2021 của người thuê đất theo Mẫu tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định số 27/2021/QĐ-TTg; bản sao Quyết định cho thuê đất hoặc Hợp đồng thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bản sao).

Cơ quan Thuế cho biết, người thuê đất chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của thông tin và đề nghị giảm tiền thuê đất của mình, đảm bảo đúng đối tượng được giảm tiền thuê đất theo quy định.

Về thủ tục giảm tiền thuê đất, đối với người thuê đất, người thuê đất nộp 1 bộ hồ sơ đề nghị giảm tiền thuê đất (bằng phương thức điện tử hoặc phương thức khác) cho cơ quan Thuế, Ban Quản lý Khu kinh tế, Ban Quản lý Khu công nghệ cao, cơ quan khác theo quy định của pháp luật kể từ ngày 25/9/2021 đến hết ngày 31/12/2021. Trường hợp nộp hồ sơ từ ngày 1/1/2022 trở về sau thì không được giảm tiền thuê đất theo quy định.

Còn đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan Thuế hướng dẫn căn cứ hồ sơ giảm tiền thuê đất do người thuê đất nộp theo quy định; không quá 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định, cơ quan có thẩm quyền xác định số tiền thuê đất được giảm và ban hành quyết định giảm tiền thuê đất theo quy định tại pháp luật về thu tiền thuê đất.

Trường hợp người thuê đất đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định giảm tiền thuê đất theo quy định của quyết định này nhưng sau đó cơ quan quản lý nhà nước phát hiện qua thanh tra, kiểm tra việc người thuê đất không thuộc trường hợp được giảm tiền thuê đất theo quy định thì người thuê đất phải hoàn trả ngân sách nhà nước số tiền thuê đất đã được giảm và tiền chậm nộp tính trên số tiền được giảm theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Trường hợp người thuê đất đã nộp tiền thuê đất của năm 2021 mà sau khi cơ quan có thẩm quyền xác định và quyết định giảm tiền thuê đất có phát sinh thừa tiền thuê đất thì được trừ số tiền đã nộp thừa vào tiền thuê đất của kỳ sau hoặc năm tiếp sau theo quy định của pháp luật về quản lý thuế và pháp luật khác có liên quan.

Trường hợp không còn kỳ phải nộp tiền thuê đất tiếp theo thì thực hiện bù trừ hoặc hoàn trả số tiền nộp thừa theo quy định của pháp luật về quản lý thuế và pháp luật khác có liên quan.

Như vậy, đối với các đối tượng đủ điều kiện theo quy định được hưởng chính sách hỗ trợ cần chủ động hoàn thiện hồ sơ và gửi đến cơ quan có thẩm quyền theo thời hạn quy định, tránh trường hợp gửi sau ngày 31/12/2021 sẽ không được hưởng chính sách của Nhà nước.

Chính sách giảm tiền thuê đất cũng như các chính sách miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí trong thời gian qua được đánh giá là các giải pháp tài khóa thiết thực, hiệu quả, có tác động tích cực và được cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân đánh giá cao, góp phần tháo gỡ khó khăn, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, và duy trì tăng trưởng của năm 2021.

Trong thời gian tới, cơ quan Thuế tiếp tục theo dõi, bám sát tình hình thực tiễn và diễn biến của dịch bệnh COVID-19, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người nộp thuế để kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành các chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng của dịch COVID-19.