COVID-19 tạo ra khoản nợ khổng lồ trên toàn cầu
Các gói kích thích chi tiêu khổng lồ đang giúp giảm bớt thiệt hại do đại dịch COVID-19 gây ra đối với nền kinh tế thế giới, nhưng "di sản" nợ để lại có thể tạo ra các cuộc khủng hoảng trong tương lai.
Gánh nặng nợ nần
Các ngân hàng trung ương và chính phủ trên toàn thế giới đã phân bổ ít nhất 15.000 tỷ USD cho các gói kích cầu, thông qua biện pháp mua trái phiếu và tăng chi tiêu ngân sách, để vượt qua suy thoái kinh tế toàn cầu, được cho là tồi tệ nhất kể từ những năm 1930.
Tuy nhiên, những hành động đó sẽ chồng chất nợ nhiều hơn cho các quốc gia, vốn đang phải vật lộn với hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009.
Viện Tài chính Quốc tế (IIF) ước tính tổng nợ toàn cầu đã tăng thêm 87.000 tỷ USD kể từ năm 2007, và các chính phủ với 70.000 tỷ USD chiếm tỷ lệ lớn trong phần tăng đó.
Cùng theo IIF, năm 2020, tỷ lệ nợ toàn cầu trên GDP sẽ tăng 20 điểm phần trăm, lên 342%, dựa trên ước tính 3% quy mô kinh tế bị thu hẹp và tăng gấp đôi số tiền vay của chính phủ tính từ năm 2019.
Nợ do kích cầu quá mức sẽ phá hủy các nền kinh tế, trong đó chịu tổn thương nhiều nhất là các quốc gia có mức nợ cao nhất, bất kể đó là nước giàu có như Italy hay nghèo như Zambia, một quốc gia vốn đã bị căng thẳng từ trước khi virus SARS-CoV-2 gây dịch COVID-19 tấn công và hiện đang ở trên bờ vực vỡ nợ.
Nhưng ngay cả các quốc gia giàu nhất cũng sẽ không thoát khỏi bị ảnh hưởng. Nợ gia tăng có thể làm cho Đức và Mỹ bị mất mức xếp hạng tín nhiệm vàng AAA, trong khi các chính phủ sẽ ngày càng phụ thuộc vào các ngân hàng trung ương để kiểm soát chi phí vay hoặc thậm chí là trực tiếp tài trợ cho chi tiêu trong nhiều năm tới.
Mike Kelly, nhà lãnh đạo của Tập đoàn Đầu tư PineBridge, nói: “Trong lịch sử, bất cứ khi nào các quốc gia tăng mức nợ, mọi thứ sẽ thay đổi. Cuộc khủng hoảng này sẽ khiến thế giới rơi lại vào bẫy tăng trưởng thấp, nơi mà chúng ta mới thoát ra được trong các năm 2016-2019”.
Cường quốc của châu Âu là Đức dự báo sẽ phải gánh một khoản nợ mới lần đầu tiên kể từ năm 2013, trong khi khoản vay quý II/2020 của Kho bạc Mỹ sẽ lên tới gần 3.000 tỷ USD – nhiều hơn gấp năm lần kỷ lục trước đó.
Ngân hàng Deutsche Bank tính toán, nợ liên bang Mỹ do công chúng nắm giữ, một thước đo được Văn phòng Ngân sách Quốc hội theo dõi, sẽ tăng lên 100% GDP trong năm nay – mức được ghi nhận lần gần đây nhất vào những năm 1940 – và tiệm cận 125% GDP vào năm 2030. Trong tài khóa 2019, con số này là 79% GDP.
Cuối cùng, nợ có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, nếu các quốc gia bắt đầu chi nhiều hơn nữa các khoản tiền kiếm được từ thu nhập hàng năm cho các chủ nợ, một tình huống mà các quốc gia đang phát triển phải chịu đựng hết lần này đến lần khác .
Nới lỏng định lượng không phải là thuốc chữa bách bệnh
Lãi suất cơ bản thấp sẽ cho phép một số quốc gia duy trì mức nợ cao. Nợ của Nhật Bản hiện vượt 200% GDP, nhưng nước này đã in thêm tiền để phát hành nợ và ngân hàng trung ương sau đó mua lại chúng.
Eric Brard, một nhà lãnh đạo thuộc công ty Amundi, nhận định khả năng kiểm soát lãi suất cơ bản và giữ chúng ở một tỷ lệ thấp là giải pháp then chốt cho việc giữ chi phí trả nợ ở mức thấp. Xu hướng này đang được quan sát thấy ở Mỹ và châu Âu, với việc các ngân hàng trung ương chiếm phần lớn các khoản nợ tăng thêm.
Nhưng ở một số quốc gia, tăng trưởng GDP trung bình đã nằm dưới mức lãi suất trong nhiều năm, điều đó có nghĩa là tỷ lệ nợ đã tăng không ngừng, thậm chí là cả trước khi đại dịch tác động. Kevin Thozet, một thành viên của ủy ban đầu tư tại Công ty Carmignac, phân tích Italy là một ví dụ điển hình. Nước này đã không hưởng lợi nhờ lãi suất thấp từ 5 năm nay.
Ông nói nợ của Italy vào khoảng 135% GDP và có khả năng tăng lên xấp xỉ 170% GDP- ngưỡng không bền vững nếu cần tăng trưởng nhanh hoặc chuyển đổi nợ. Ông Thozet gợi ý nên gộp rủi ro của tất cả các quốc gia thành viên châu Âu. Tuy nhiên, đây là một ý tưởng mà các nước giàu đang phản đối.
Theo Quỹ Quản lý Tài sản Pictet, Hy Lạp có khoản nợ bền vững tồi tệ nhất vào cuối năm 2019, trong số các quốc gia phát triển, theo sau là Italy, Nhật Bản, Bỉ và Anh.
Tuy nhiên, Italy và một số quốc gia Nam Âu khác có thể được Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) bảo trợ cho các khoản tiền vay, một điều xa xỉ mà hầu hết các quốc gia đang phát triển đều thiếu.
Các ngân hàng trung ương tại một loạt các nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu thực hiện các chương trình nới lỏng định lượng riêng của mình.
Nhưng, các quốc gia này không có tích lũy trong nước, hầu hết phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài để bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán và củng cố các loại tiền tệ.
Điều đó, cùng với rủi ro lạm phát, gây hạn chế số lượng tiền mà họ có thể in thêm nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Các nhà phân tích cho biết động lực đó có thể đưa một số nền kinh tế đang phát triển rơi vào một chu kỳ mất giá và lạm phát khác.
Ông Andres Sanchez Balcazar, nhà quản lý thuộc Quỹ Quản lý Tài sản Pictet cho biết: "Đáng lo ngại là một số nền kinh tế đang phát triển nhanh - Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Nam Phi - đang đi theo hướng này."
Một số quốc gia như Brazil và Nam Phi trong nhiều năm qua đã vật lộn với mức tăng trưởng hàng năm dưới 2%, trong khi lãi suất cao tương ứng là 14,25% và 7%.
Nợ công của Brazil vào cuối năm nay có thể tăng lên tương đương 77,2% GDP và ở Nam Phi là tương đương 64,9% GDP. Dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy, một thập kỷ trước, chúng lần lượt là khoảng 61% GDP và 35% GDP.
Mức nợ tăng lên lần lượt làm tăng chi phí vay của các tổ chức phát hành. Và nỗi lo trong dài hạn đó là ai sẽ là người trả những khoản nợ đó.