Giải pháp chuyển đổi số cho hộ kinh doanh trong giai đoạn mới
Chuyển đổi số đang mở ra cơ hội bứt phá cho hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam, nhưng cũng đặt ra thách thức chưa từng có. Trong khi một số đơn vị mạnh dạn ứng dụng công nghệ đã ghi nhận hiệu quả rõ rệt, thì hàng triệu hộ nhỏ lẻ vẫn loay hoay trước rào cản pháp lý, chi phí tuân thủ và áp lực từ chính sách mới.

Thách thức cho hàng triệu hộ kinh doanh
Theo khảo sát, mức độ chuyển đổi số của các hợp tác xã trên cả nước chỉ đạt trung bình 32%. Trong đó, 13,6% đã hoàn tất quá trình chuyển đổi, 50% đang triển khai, và có tới 36,4% chưa thực hiện bất kỳ hoạt động số hóa nào. Thực tế cho thấy, những hợp tác xã mạnh dạn ứng dụng công nghệ đã đạt nhiều thành quả rõ rệt như chi phí sản xuất giảm 15-20%, năng suất tăng 15-28%, chất lượng sản phẩm và dịch vụ cải thiện, năng lực cạnh tranh thị trường được nâng cao.
Những con số này phản ánh hai thực tế song song, một bên là tiềm năng to lớn khi chuyển đổi số thành công, bên kia là nguy cơ tụt hậu nếu chậm chân. Khoảng cách này đặc biệt đáng lo ngại khi xét đến hộ kinh doanh cá thể - lực lượng chiếm tỷ trọng rất lớn. Đặc biệt, Việt Nam hiện có khoảng 5,5 triệu hộ kinh doanh cá thể, đóng góp gần 30% GDP nhưng chỉ chiếm 1,6% thu ngân sách, và còn tới 20 triệu cá nhân kinh doanh phi chính thức chưa được quản lý.
Các chuyên gia chỉ ra rằng, khó khăn lớn nhất của hộ cá thể nằm ở việc thiếu tư cách pháp nhân. Điều này khiến họ không thể ký hợp đồng lớn, khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, không đủ điều kiện tham gia đấu thầu hay tham gia sâu vào hoạt động xuất nhập khẩu. Hệ quả là phần lớn chỉ quanh quẩn ở quy mô nhỏ lẻ, phụ thuộc quan hệ truyền thống, thiếu cơ hội bứt phá. Khoảng trống này càng lớn trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.
Ngoài ra, áp lực tuân thủ theo Nghị định số 70/2025/NĐ-CP từ 1/1/2026 cũng gây lo ngại. Khi đó, toàn bộ hộ kinh doanh bắt buộc phải kê khai thuế và phát hành hóa đơn điện tử. Chính sách này nhằm minh bạch hóa và hiện đại hóa quản lý, nhưng thực tế lại vượt quá khả năng tài chính, công nghệ và kế toán của nhiều hộ nhỏ lẻ, nhất là tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa; thậm chí không ít hộ có nguy cơ “choáng ngợp” trước yêu cầu mới.
Khó khăn tiếp theo là tình trạng thiếu hóa đơn đầu vào - đầu ra, đặc biệt trong nông sản, vận tải, thủ công mỹ nghệ. Đây là rào cản lớn khiến hộ cá thể khó minh bạch doanh thu, hạn chế mở rộng thị trường chính ngạch và xây dựng chuỗi cung ứng ổn định. Các doanh nghiệp lớn cũng e dè khi hợp tác do thiếu chứng từ hợp lệ. Điều này vô hình trung làm giảm khả năng hội nhập của hộ cá thể vào nền kinh tế chính thống.
Bên cạnh đó, chi phí tuân thủ cũng là gánh nặng lớn. Việc thuê kế toán, mua phần mềm quản lý hóa đơn, duy trì hạ tầng dữ liệu vượt quá khả năng của phần lớn hộ nhỏ. Thêm vào đó là tâm lý e ngại minh bạch, lo sợ gánh nặng thuế, trong khi thói quen lấy hóa đơn của người tiêu dùng chưa phổ biến. Tất cả khiến hàng triệu hộ đối diện nguy cơ bị bỏ lại phía sau, thậm chí buộc phải ngừng kinh doanh hoặc duy trì hoạt động phi chính thức.
Xây dựng hệ sinh thái kinh tế mở
Trước thực trạng trên, Đề án “Liên đoàn hợp tác xã điện tử (Liên minh kinh tế số)” do Nhà văn, Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Tuấn - Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện Khoa học - Giáo dục và Môi trường cùng Hội đồng Khoa học và hơn 300 doanh nghiệp, hợp tác xã khởi xướng ra đời như một giải pháp đột phá. Mục tiêu của Đề án là hướng tới xây dựng “giải pháp chuyển đổi mềm” cho hơn 5 triệu hộ cá thể, tạo hành lang minh bạch hóa tài chính - pháp lý, phát hành hóa đơn hợp lệ, tiếp cận tín dụng và dịch vụ số, từng bước hội nhập chuẩn mực quản trị doanh nghiệp hiện đại.
Điểm đặc biệt là hộ kinh doanh không bị buộc phải ngay lập tức chuyển thành doanh nghiệp chính thức. Thay vào đó, họ được hỗ trợ để chuyển đổi dần dần, tránh “sốc pháp lý” hay chi phí vượt khả năng. Đây là cách tiếp cận phù hợp với văn hóa kinh doanh Việt Nam; đồng thời góp phần hiện thực hóa mục tiêu quốc gia "đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, vững mạnh". Giải pháp này cũng giảm áp lực cho cả hộ cá thể lẫn cơ quan quản lý.
Theo ông Nguyễn Xuân Tuấn, hợp tác xã điện tử không đơn thuần là một mô hình công nghệ, mà còn là một cải cách thể chế mềm dẻo. Bằng việc tập hợp cộng đồng hộ cá thể, doanh nghiệp nhỏ và hợp tác xã trong một nền tảng số, Liên đoàn hợp tác xã điện tử trở thành cầu nối giữa khu vực kinh tế phi chính thức và hệ thống quản lý hiện đại. Đây là cách để biến lực lượng kinh tế nhỏ lẻ trở thành một phần hữu cơ của nền kinh tế số.
Trong tương lai, mô hình này không chỉ dừng lại ở chuyển đổi tài chính - pháp lý, mà còn hội tụ nhiều hình thái kinh tế mới, từ kinh tế số, kinh tế dữ liệu, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, cho đến kinh tế chia sẻ và kinh tế nhân văn. Đây là hạ tầng thể chế mới, nơi lực lượng sản xuất truyền thống và hiện đại cùng phát triển hài hòa, đảm bảo tăng trưởng đi đôi với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Việt Nam vì thế có thể định hình mô hình phát triển riêng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
Điểm nhấn của Đề án là xây dựng một hệ sinh thái kinh tế mở và nhân văn. Ở đó, các yếu tố như kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, kinh tế dữ liệu, kinh tế xanh, tuần hoàn và chia sẻ được tích hợp, nhằm tận dụng tối đa nguồn lực xã hội, giảm chi phí tuân thủ và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc triển khai Liên đoàn hợp tác xã điện tử sẽ giúp hàng chục triệu hộ cá thể bước vào nền kinh tế số, tạo động lực để Việt Nam phát triển bền vững, dựa trên công nghệ, môi trường và giá trị con người.