Đánh giá tình hình hiện nay và xu hướng TTCK sắp tới
Như một dự báo trước, việc điều chỉnh tỷ giá USD/ VND vào sáng ngày 11/02/2011 đã không làm bất ngờ nhà đầu tư vì là điều tất yếu không thể làm khác đi được trong bối cảnh dự trữ ngoại tệ của Quốc gia đang ở mức thấp.

Điều bất ngờ ở đây là biên độ điều chỉnh khá mạnh, tăng thêm đến 9.3% và đưa tỷ giá liên ngân hàng tiến sát tỷ giá trên thị trường tự do.
Tỷ giá là yếu tố vĩ mô quan trong là công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nền kinh tế, việc tăng tỷ giá lần này sẽ có những tác động tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán:
Những tác động tích cực của việc tăng tỷ giá thêm 9.3%:
- Hỗ trợ xuất khẩu và giảm nhập siêu:
Việc tăng tỷ giá USD/ VND tăng thêm 9.3 % sẽ làm hàng hóa của Việt Nam trở nên rẻ thêm so với những hàng hóa cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới. Từ đó, tạo được thế cạnh tranh hàng hóa, gia tăng xuất khẩu, giảm dần nhập siêu góp phần ổn định tỷ giá trở lại; đồng thời góp phần giảm nhập khẩu lạm phát từ các nước khác khi tỷ giá ổn định trong thời gian tới.
- Đưa dòng chảy ngoại tệ theo đường chính quy từ đó tạo thanh khoản ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng:
Việc tăng tỷ giá lên 9.3% đã đưa tỷ giá trên thị trường chính quy về sát tỷ giá trên thị trường tự do từ đó hướng dòng chảy USD theo đường chính quy và vì thế việc điều hành tỷ giá trở nên thuận lợi hơn, giảm thiểu những tác động xấu từ động thái đầu cơ từ thị trường tự do gây ra.
- Thu hút đầu tư nước ngoài mới nếu sau phá giá, tỷ giả ổn định:
Việc tăng tỷ giá đã khiến hàng hoá của Việt Nam trở nên rẻ hơn sẽ giảm chi phí đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài mới đến Việt Nam. Từ đó có thể thôi thúc một làn song đầu tư mới vào Việt Nam trong thời gian tới. Đặc biệt, sau động thái tăng tỷ giá của NHNN thì giá cổ phiếu của Việt Nam đã rẻ lại càng rẻ hơn so với trước đây.
- Điều chỉnh tỷ giá sẽ giải quyết nút thắt tỷ giá chờ đợi từ đầu quý 4 đến nay và dòng vốn đầu tư mới trực tiếp và gián tiếp có thể giải ngân mạnh hơn trong thời gian tới.
Những tác động không tích cực của việc tăng tỷ giá thêm 9.3%:
- Tạo áp lực lên lạm phát trong ngắn hạn:
Tăng tỷ giá sẽ hỗ trợ xuất khẩu, giảm nhập siêu. Tuy nhiên, việc tăng tỷ giá sẽ tạo áp lực tăng giá lên hàng nhập khẩu. Nguyên liệu nhập khẩu tăng giá sẽ tạo áp lực lên lạm phát. Đặc biệt, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đang khó khăn sẽ tiếp tục khặp khó khăn vì giá nhập khẩu xăng, dầu tăng sẽ tạo thêm áp lực tăng giá xăng dầu trong nước trong thời gian tới. Điều này tạo áp lực lên an sinh xả hội và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân.
- Có thể làm giảm lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài nếu đồng Việt Nam tiếp tục mất giá sau đợt điều chỉnh này:
Việc liên tục điều chỉnh tỷ giá trong thời gian vừa qua có thể làm giảm lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài lên đồng Việt Nam, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài đã đến từ trước. Tỷ giả tăng 9.3% thì đồng nghĩa với việc chỉ qua 1 đêm tài sản ròng của các quỹ cũ giảm xuống 9.3%. Nếu sau phá giá, đồng Việt Nam tiếp tục mất giá, tiếp tục không ổn định thì có thể là rào cản ngăn dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Đây là điều thật sự đáng lo và cần được nhà điều hành quan tâm và giải quyết đúng mực để lấy lại lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam trực tiếp hay gián tiếp thì mới quan ngại lớn nhất của họ là tỷ giá. Họ cần tỷ giá ổn định đển an tâm đầu tư. Chúng ta, cần giữ tỷ giá ổn định để thu hút đầu tư nước ngoại. Sự điều chỉnh liên tục tỷ giá trong thời gian vừa qua dễ làm họ mất niềm tin. Do đó, ổn định tỷ giá, không để đồng Việt Nam trượt giá quá đà thêm là một nhiệm vụ cần phải thực hiện ngay.
- Làm gia tăng áp lực lên nợ nước ngoài của doanh nghiệp và của Quốc gia:
Tỷ giá tăng, đồng Việt nam mất giá sẽ gây thiệt hại lớn cho dân nhất là lạm phát, đời sống khó khăn, nợ của DN, nợ của nhà nước sẽ ngày càng nặng nề làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Thực tế quyết định tăng tỷ giá của NHNN vào ngày 11/02 có phần đi sau thị trường và chỉ là 1 bước hơp thức hóa 1 phần những gì đã và đang diễn ra:
Việc tăng tỷ giá thêm 9.3% có thể dẫn đến những điểm tích cực và tiêu cực như đã nói ở trên về tổng thể thì không thể nói tăng tỷ giá làm đồng Việt Nam mất giá thêm là một tin tốt cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây là việc tăng tỷ giá đợt này trên thực tế đã đi sau 1 bước so với thị trường và động thái này của NHNN gần như hợp thức hóa một phần những gì đang diễn ra trên thị trường tiền tệ từ đầu quý 4 đến trước ngày 11/02. Do đó, tác động của động thái này đã phản ánh 1 phần vào giá cả và lạm phát từ đầu quý 4 đến nay.
Thực chất, tỷ giá đã tăng mạnh trên thị trường tự do từ đầu quý 4 và vẫn đứng ở mức cao trên 21 000 trong suốt thời gian vừa qua. Trước ngày 11/02, trên thị trường chính quy qua ngân hàng, mặc dù giá niêm yết không thay đổi nhưng các doanh nghiệp giao dịch qua ngân hàng hầu như theo chế độ 2 giá và tính chung lại vẫn rất sát với giá trên thị trường tự do.
Trên thị trường tự do, giá USD tăng thêm theo hiệu ứng tăng tỷ giá của NHNN và đứng ở mức 21580-21600 vào cuối tuần rồi, thực chất là tỷ lệ tăng không nhiều so với trước khi có quyết định tăng tỷ giá vì tỷ giá đã tăng trước một bước trước đó và quyết định của NHNN chỉ là theo sau.
Từ đó, có thể thấy rằng, việc tăng tỷ giá lần này lên thêm 9.3% nhưng thực chất lại là hợp thức hóa một phần việc “giao dịch chui” của hệ thống ngân và hợp thức hóa việc tăng trước đó trên thị trường tự do. Nghĩa là, việc tăng tỷ giá đợt này về cơ bản đã phản ảnh vào giá nhiều hàng hoá và phản ánh vào việc lạm phát gia tăng từ đầu quý 4 đến nay.
Do đó, nhà điều hành cần kiểm soát chặt giá cả tránh trường hợp một số doanh nghiệp tăng theo kiểu “té nước theo USD” một cách vô lý. Bởi lẽ rằng, một số doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa mà giao dịch USD qua hệ thống ngân hàng thì thực chất là tỷ giá không có nhiều thay đổi so với trước và sau quyết định nâng tỷ giá của NHNN. Chỉ khác một điều là “giao dịch chui” và giao dịch chính quy hợp thức hóa một phần giao dịch chui trước đó. Thậm chí, giao dịch trên thị trường tự do cũng không có sự đột biến tỷ giá trước và sau ngày 11/02.
Dự báo, đồng USD trên thị trường tự do sẽ ổn định trở lại và nằm gần tỷ giá với thị trường chính quy vào cuối tuần này.
Vấn đề ở chổ, nhà điều hành cần giữ được sự ổn định tỷ giá trong thời gian dài, kiểm soát chặt để không bị các “nhà buôn tiền tệ” thao túng để ổn định tâm lý và tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Cho đến cuối năm 2011, hy vọng rằng không có 1 lần điều chỉnh tỷ giá nào thêm nữa.
Khuynh hướng của thị trường và động thái của NĐT:
Quyết định nâng tỷ giá được nhà đầu tư chờ đợi từ đầu quý 4 hầu như không còn tác động nhiều đến tâm lý nhà đầu tư và không có hiện tượng bán tháo khi quyết định tăng tỷ giá được công bố vào đầu giờ giao dịch trong phiên cuối tuần rồi. Ngoài ra, Index đang đứng ở mức cao gần 520 nhưng giá của nhiều cổ phiếu vẫn đang ở mức thấp tương đương với VN-Index dưới mức 480.
Do đó, giá của nhiều cổ phiếu (không xét VN-Index) khó có khả năng giảm sâu thêm. Quyết định tăng tỷ giá cũng đã góp phần giải thoát một phân tâm lý luôn lo ngại, luôn canh cánh trong lòng về vấn đề này.
Ngoài nút thắt tỷ giá mà đã được tháo gỡ 1 phần sau quyết định tăng tỷ giá thì giá xăng, dầu cùng với nổi lo lạm phát cũng đang chi phối tâm lý nhà đầu tư. Tuy nhiên, những quan ngại đó đã phản ánh 1 phần vào thị trường trong thời gian vừa qua.
Giá xăng, dầu có tăng hay không trong thời gian tới còn chưa biết vì cách điều hành luôn có những cú sốc mà không lườn trước được, cứ kềm hãm giá cho lâu rồi tăng 1 lần lên mạnh thì dễ tạo ra 1 cú sốc như năm 2008 là không nên.
Tuy nhiên, nếu giá xăng tăng trong thời gian tới sẽ làm thị trường chao đảo trong 1-2 phiên thì những điểm chao đảo đảo đó của thị trường có thể là cơ hội cho người cầm tiền giải ngân vào cổ phiếu với giá rẻ.
Vấn đề lạm phát năm 2011 thì không nên kỳ vọng kềm chế dưới 7% mà nên nghĩ là 8%-9% để không phải tự tạo ra 1 cú sốc cho chính mình. Người đưa ra chỉ tiêu dưới 7% là chưa nhìn thấy những diễn cảnh trước mắt sẽ xảy ra. Có lẽ, năm 2011 kềm chế được CPI ở 1 con số là tốt rồi.
Xu hướng hiện tại của thị trường thì chưa thấy có 1 đợt sóng hồi phục mạnh trên diện rộng toàn thị trường (xét về giá cổ phiếu, không xét về VN-Index) vì một số khó khăn của kinh tế vĩ mô tiếp tục cần phải được giải quyết.
Tuy nhiên, xét về giá cổ phiếu thì thị trường có thể sẽ ổn hơn trong tuần này, khả năng giá của 1 số cổ phiếu giảm sâu thêm là khó xảy ra vì sau tỷ giá các nút thắt khác có thể đang được tháo gỡ dần.
Từ quý 2, nếu lãi suất hạ nhiệt, tỷ giá ổn định thì nhiều cổ phiếu trên cả 2 sàn có khả năng sẽ hồi phục dần với những phiên tăng, giảm đan xen.
Thời điểm này, các nhà đầu tư ngắn hạn đang tham gia thị trường có thể chọn phương án tiếp tục giữ tiền và cổ theo 1 tỷ lệ thích hợp để phòng khi rủi ro vĩ mô xảy ra chúng ta còn có tiền để sửa sai. Chưa vội sử dụng đòn bẫy tài chính.
Nhà đầu tư đang cầm 100% tiền cũng có thể xem xét giải ngân dần 1 ít ở những phiên cổ phiếu mình muốn mua giảm điểm, không giải ngân dồn dập mà giữ lại 1 tỷ lệ tiền thích hợp để có thể sửa sai khi cần thiết. Đặc biệt, hạn chế mua đu giá cao ở những thời điểm hay những phiên bật dậy của thị trường, trừ 1 số cổ phiếu có thông tin đặc biệt.
1 tỷ lệ tiền cổ được đề nghị là 50% tiền-50% cổ hoặc 40% cổ-60% tiền; tỷ lệ này có thể thay đổi theo 1 tỷ lệ nào khác thích hợp tùy vào chiến lược kinh doanh và mức độ chịu đựng được rủi ro của từng nhà đầu tư. Chỉ nên lướt trên những cổ phiếu mình đang có.
Sẽ là nguy hiểm nếu lúc này tỏ ra hưng phấn quá mức hay bi quan quá đà. Tốt nhất là bình tỉnh đầu tư theo chiến thuật của mình đã vạch ra thì xác suất thành công sẽ cao hơn.
Thiết nghĩ, đầu tư ngắn hạn thì nên đặt kỳ vọng giá mua, giá bán và tuân thủ kỷ luật đầu tư để tránh mua đỉnh rồi cắt lỗ ở đáy.
Nếu thị trường hồi phục thì nên quan tâm đến sàn Hà Nội vì HNX – Index đang thể hiện đúng bản chất của thị trường và giá nhiều cổ phiếu trên sàn này đang ở mức thấp nên rủi ro sẽ không cao.
Nên theo dõi diễn biến của tỷ giá sau khi điều chỉnh ngày 11/02, để có chiến lược đầu tư thích hợp.
Ở thời điểm hiện tại, không cần quá quan tâm đến những biến động của các cổ phiếu đang được nước ngoài chi phối. Tạm thời không quan tâm đến sự biến động của VN-Index, chỉ quan tâm đến cổ phiếu mình đang nắm giữ và các cổ phiếu định đưa vào danh mục, không lấy chỉ số này làm tiêu chí đầu tư trong giai đoạn hiện nay.