Để khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân khẳng định vai trò trong nền kinh tế
Chủ trương nhất quán của Đảng ta là đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xác định rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng, có vai trò lớn trong huy động nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội.
Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ… Việc xây dựng các doanh nghiệp lớn, có vai trò dẫn dắt phát triển năng lực sản xuất quốc gia và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là phù hợp với chủ trương của Đảng và vị trí, vai trò của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để khu vực kinh tế nhà nước phát huy tốt vai trò chủ đạo
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã nêu rõ chủ trương củng cố vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước (KTNN): “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Sau hơn 30 năm phát triển thành phần kinh tế nhà nước, trong đó có doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Quá trình thực hiện chủ trương đổi mới, cơ cấu lại toàn diện, triệt để DNNN, từ phương thức hoạt động cho đến cơ chế quản lý, quản trị đối với DNNN đã tạo hiệu quả thay đổi căn bản để bảo đảm DNNN được tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động và cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường (nhất là đã tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản trị DN, kinh doanh, sau đó là tách chức năng đại diện chủ sở hữu khỏi cơ quan chủ quản, cùng với đó là trao quyền tự chủ kinh doanh cho DNNN). Đến nay, DNNN được xác định là tổ chức kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường và được tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động; có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của nhà nước tại DN.
Có thể thấy, số lượng DNNN giảm mạnh thông qua cổ phần hoá, thoái vốn, sáp nhập, hợp nhất, giải thể. Hiện cả nước còn khoảng hơn 2 nghìn DN, chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Quy mô hoạt động, năng lực tài chính, quản trị, điều hành và trình độ công nghệ, khả năng cạnh tranh của các DNNN không ngừng được nâng cao, trong đó có một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, trình độ sản xuất kinh doanh, công nghệ hiện đại và có vị thế lớn, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế như: Viettel, VNPT, PVN, EVN, Vietnam Airlines…
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc cơ cấu lại, đổi mới, nhất là cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN còn chậm, chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, quy mô hoạt động, tiềm lực tài chính, năng lực quản trị, trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, chưa tương xứng với nguồn lực rất lớn đang nắm giữ và sự hỗ trợ, ưu tiên của Nhà nước dành cho DNNN. Nhiều DNNN hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, khó khăn tài chính, bên bờ vực phá sản, gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản của Nhà nước. Chỉ có khoảng 78% số DNNN kinh doanh có lãi.
Trên thực tế, quyền tự chủ kinh doanh của DNNN còn hạn chế hơn nhiều so với DN ngoài nhà nước do bị ràng buộc bởi nhiều quy định pháp luật và cơ chế quản lý rất phức tạp, cồng kềnh về DN, quản lý ngân sách, đầu tư, tài sản công, vốn nhà nước, công tác cán bộ, lao động, tiền lương… Việc phân cấp, phân quyền, trách nhiệm còn thiếu sự rõ ràng và minh bạch; Khi quyền tự chủ của DNNN không được bảo đảm và phát huy thì DNNN sẽ gặp khó khăn hơn trong hoạt động, năng lực đổi mới sáng tạo, tính năng động, quyết đoán của DN cũng bị hạn chế.
Trước thực trạng DNNN hiện nay, nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện phải là đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh, phải đảm bảo DNNN giữ vị trí then chốt, vai trò là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, dẫn dắt các DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Để bảo đảm vai trò, vị trí nêu trên của DNNN, trong thời gian tới cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới cơ chế, chính sách để DNNN thật sự vận hành theo cơ chế thị trường. Xác định và xử lý hài hoà mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội. Bảo đảm quyền tự chủ hoạt động của DNNN theo nguyên tắc thị trường. DNNN phải hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhà nước thực hiện đầy đủ trách nhiệm của chủ sở hữu, vốn đầu tư tại DN; thực sự đóng vai trò là nhà đầu tư, chủ sở hữu bình đẳng với các nhà đầu tư khác trong DN. Xóa bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho DNNN. Tách bạch nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ công ích và nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao. Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và DNNN, nhất là các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước phải được thực hiện sòng phẳng, đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ hai, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của DNNN. Đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN theo hướng kiên quyết cổ phần hóa, bán vốn tại những DN mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối (kể cả những DN đang kinh doanh có hiệu quả); tăng cường quy mô, năng lực tài chính lành mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo; Tập trung xử lý nhanh, dứt điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư của DNNN kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, kể cả áp dụng biện pháp phá sản.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị và nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý DNNN; Hiện đại hoá hệ thống công nghệ, tận dụng cơ hội của Cách mạng công nghiệp 4.0; Áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị DN; Bảo đảm tính minh bạch, công khai của DNNN và trách nhiệm giải trình của người quản lý DN và cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước; Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo của DNNN ngang tầm nhiệm vụ; Thiết lập các hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc kiểm soát quyền lực, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các rủi ro, hành vi tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích; Thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động và người quản lý DNNN phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý DNNN. Hoàn thiện mô hình quản lý DNNN và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại DN. Rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về DNNN, đặc biệt là các cơ chế, chính sách về tập đoàn kinh tế, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại DN và cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đối với DNNN; kiểm soát chặt chẽ quyền lực, phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong DNNN.
Thứ năm, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế
Cùng với quá trình đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở cửa nền kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định vai trò ngày càng quan trọng và khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân, từ chỗ kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế (Đại hội X, XI) thành là một động lực quan trọng của nền kinh tế (Đại hội XII).
Vị thế của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định và thể hiện rõ nét thông qua những đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 42-43% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế
Trong 20 năm qua, Đảng đã có 2 nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết Trung ương V khoá IX, khoá XII). Quốc hội đã ban hành Luật công ty năm 1990, Luật DN tư nhân năm 1990 (được sửa đổi, bổ sung năm 1995); Luật DN năm 1999; Luật DN năm 2005 điều chỉnh chung cả DNNN và DN của tư nhân (được sửa đổi, bổ sung năm 2013); Luật DN năm 2014 và Luật DN năm 2020.
Đến nay, khu vực kinh tế tư nhân đã không ngừng lớn mạnh, đóng vai trò ngày càng quan trọng và dần trở thành một động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế. Cả nước hiện có khoảng 800 nghìn DNTN đang hoạt động, chiếm khoảng 97% tổng số DN đang hoạt động.
Vị thế của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định và thể hiện rõ nét thông qua những đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 42-43% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội... Đặc biệt, lực lượng DNTN đã góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều thương hiệu có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Thành tựu phát triển về số lượng, quy mô, tốc độ và trình độ, năng lực quản trị, công nghệ, kinh doanh, khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân trong những năm qua rất đáng khích lệ, nhờ sự nỗ lực vươn lên của bản thân kinh tế tư nhân và vai trò không thể phủ nhận của Nhà nước trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên, khu vực KTTN cũng còn nhiều tồn tại, hạn chế.
Việt Nam đã có DN của tư nhân quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh cấp khu vực và quốc tế trên một số lĩnh vực, nhưng đa số DN có quy mô siêu nhỏ và nhỏ (chiếm khoảng 93%); DN lớn chiếm dưới 3%. Đáng lưu ý phần nhiều, DN ngoài nhà nước có hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh thấp, trình độ quản trị yếu, công nghệ lạc hậu; tỷ suất lợi nhuận của các DN của tư nhân chỉ đạt 2,4% trong khi của DNNN là 5,58%, DN FDI là 5,6% và có tới gần 50% DNTN thua lỗ.
Khả năng tồn tại của DNTN thấp; số DN thành lập mới hàng năm nhiều nhưng giải thể, ngừng hoạt động cũng lớn, ví dụ năm 2019 là năm nền kinh tế khá thuận lợi và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; số DN thành lập mới năm 2019 đạt mức kỷ lục 138,1 nghìn DN, nhưng tỷ lệ DN tạm ngừng hoạt động so với số DN thành lập mới là hơn 52%...
Những con số trên cho thấy, KTTN chưa thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh, trong đó các khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang vươn lên mạnh mẽ. Tiềm năng và dư địa để phát triển kinh tế tư nhân còn rất lớn nhưng rào cản đối với kinh tế tư nhân vẫn còn không ít.
Có thể kể đến, một số rào cản đối với sự phát triển KTTN hiện nay như:
Thứ nhất, môi trường kinh doanh chưa chưa thực sự thông thoáng, minh bạch, bình đẳng. Môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2020 xếp thứ 77/190 nước, vẫn còn cách xa so với 3 nước hàng đầu ASEAN 4 (Singapore 2/190, Malaysia 12/190, Thái Lan 21/190) và Trung Quốc 31/190, Ấn Độ 63/190 và nhiều nước chuyển đổi như Geogia xếp thứ 7, Lít Va 11, Estonia 18, Lát Vi a 19, Kazakhstan 25…
Tâm lý kỳ thị, phân biệt đối xử DNTN vẫn còn tồn tại ở không ít cơ quan, chính quyền địa phương; Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, nhất là trong lĩnh vực đất đai, thuế, bảo hiểm xã hội và cấp phép kinh doanh có điều kiện; cơ chế, chính sách còn thiếu minh bạch, nhất là trong công tác quy hoạch; kiểm tra, thanh tra chuyên ngành vẫn là gánh nặng, làm gia tăng chi phí tuân thủ đối với DN. Tình trạng tham nhũng, nhất là tham nhũng vặt và tiêu cực vẫn còn diễn ra khá nghiêm trọng làm tăng chi phí phi chính thức trong các giao dịch cấp phép, kinh doanh, đấu thầu, đấu giá mua bán tài sản, dự án đầu tư và tiến hành thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó, KTTN gặp khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực sản xuất, nhất là vốn, đất đai, mặt bằng sản xuất và tiếp cận thông tin, cơ hội kinh doanh, thị trường. Mặt bằng lãi suất cho vay còn cao, mức cho vay chưa đáp ứng nhu cầu của DN và điều kiện vay vốn vượt quá khả năng của nhiều DN.
Thứ hai, khung khổ pháp lý còn nhiều bất cập, chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao; chi phí tuân thủ pháp luật và thực thi hợp đồng cao. Thiếu cơ chế, chính sách thử nghiệm triển khai các mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; Thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ về khởi nghiệp, tài chính, quản trị, đổi mới sáng tạo và hiện đại hoá công nghệ, phát triển thị trường, đào tạo lao động, chuyển đổi các hộ kinh doanh các DN, các DN nhỏ và vừa phát triển lên thành các DN lớn, tập đoàn kinh tế. Điều kiện kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn bất hợp lý cản trở khả năng tiếp cận, gia nhập và mở rộng thị trường của các DNTN.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế (trên 75% lao động chưa có bằng cấp, chứng chỉ đào tạo nghề), chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, trong khi việc tuyển dụng lao động có tay nghề phù hợp còn nhiều khó khăn và chi phí lao động ngày càng tăng nhanh.
Thứ tư, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh, nhất là hệ thống giao thông còn hạn chế, thiếu đồng bộ và chậm được đầu tư cải tạo, nâng cấp và mở rộng…
Khuyến khích hình thành phát triển các tập đoàn kinh tế lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn
Sự hình thành các tập đoàn kinh tế là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá sâu rộng, đồng thời dưới sự tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 và cạnh tranh chiến lược, kinh tế, địa chính trị gay gắt, chủ trương xây dựng và phát triển tập đoàn kinh tế của Đảng ta là nhất quán.
Từ Đại hội IX của Đảng, Đảng ta đã có chủ trương xây dựng một số tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đại hội XI Đảng ta cũng khẳng định tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân bên cạnh các tập đoàn kinh tế nhà nước có hình thức sở hữu hỗn hợp. Đến Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế cùng với củng cố, phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hiệu quả hoạt động cao hơn, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Việt Nam cần xây dựng và phát triển hệ thống DN nội địa mạnh gồm cả DNNN và DN của tư nhân, trong đó có những tập đoàn kinh tế lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh cao để làm trụ cột, dẫn dắt DN thuộc các thành phần kinh tế khác triển khai thực hiện các chiến lược, chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, các công trình, dự án đầu tư lớn tầm quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước; huy động và đầu tư quy mô lớn các nguồn lực xã hội; đi tiên phong, mở đường và tạo sự đột phá về năng lực sản xuất quốc gia trong một số ngành then chốt, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Đại hội XIII không chỉ coi trọng củng cố, phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước mà còn khuyến khích, tạo điều kiện cho sự hình thành những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Việc Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, xây dựng Đề án phát triển DNNN quy mô lớn và Đề án Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân là rất cần thiết, kịp thời để thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá XII.
Việc xây dựng và phát triển các DN Việt Nam có quy mô lớn, tiềm lực mạnh, trình độ công nghệ, quản trị hiện đại, có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế, đóng vai trò tập hợp, liên kết các DN và tham gia sâu vào các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu hiện nay có nhiều yếu tố thuận lợi.
Thực tế đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm về phát triển và quản lý DN; thế và lực của cộng đồng DN Việt Nam đã lớn mạnh hơn rất nhiều; nhiều DN lớn, tập đoàn kinh tế của nhà nước và tư nhân đã hình thành và bước đầu khẳng định được vai trò, vị thế trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế là điều kiện thuận lợi để hình thành một số DN, tập đoàn kinh tế lớn đóng vai trò dẫn dắt, trụ cột; thế giới “phẳng” và hội nhập quốc tế sâu rộng đẩy nhanh quá trình lan toả tri thức và học hỏi kinh nghiệm; khung khổ pháp lý và cơ chế quản lý DN đã được hình thành tương đối đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế; nền kinh tế đang trong giai đoạn đổi mới và phát triển nhanh với nhiều tiềm năng, triển vọng tương lai sáng sủa lại được hỗ trợ tích cực bởi sự ổn định về chính trị và sự lãnh đạo sáng suốt và đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng mở ra nhiều cơ hội cho DN phát triển bứt phá…
Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển các DN, tập đoàn kinh tế lớn ở Việt Nam cũng có không ít khó khăn, đó là: Quá trình hình thành và phát triển DN của nước ta chưa dài; Điểm xuất phát của DN Việt Nam thấp, tích luỹ kiến thức, quy mô vốn, tiềm lực tài chính, năng lực quản trị, bí quyết kinh doanh, thương hiệu, uy tín còn hạn chế; số lượng DN chưa nhiều so với quy mô nền kinh tế và dân số song lại thiếu sự liên kết chặt chẽ; Môi trường kinh doanh chưa thực sự thuận lợi, thông thoáng, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế còn nhiều bất cập, đang trong quá trình hoàn thiện; nguồn lực xã hội trong nước và khả năng hỗ trợ nguồn lực của Nhà nước còn hạn chế cho phát triển DN lớn, hình thành tập đoàn kinh tế; sức ép cạnh tranh từ phía DN nước ngoài ngày càng lớn…
Sự đổi mới tư duy về phát triển tập đoàn kinh tế nói chung và tập đoàn kinh tế tư nhân nói riêng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử. Đến nay, bước đầu nước ta đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế của Nhà nước và tư nhân, từng bước khẳng định vai trò và hiệu quả ngày càng quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như: Năng lượng (EVN, PVN), viễn thông (VNPT, Viettel), nông nghiệp (TH), bất động sản, công nghiệp (Vin, Sun, Thaco, Hòa Phát), nhưng vẫn chưa đủ, còn thiếu những tập đoàn kinh tế thực sự có quy mô lớn, năng lực tài chính, công nghệ, quản trị mạnh, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao.
Trong quá trình hình thành và phát triển các DN, tập đoàn kinh tế lớn ở Việt Nam, song song với việc xây dựng một số tập đoàn kinh tế lớn mạnh, để hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, có tiềm lực mạnh và khả năng cạnh tranh quốc tế, thực hiện mục tiêu đóng góp của khu vực KTTN vào GDP đạt 60-65%, cần tập trung triển khai các nội dung sau:
Thứ nhất, thống nhất về nhận thức và hành động, xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Xác định và giải quyết hài hoà mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội.
Thứ hai, kiên quyết, kiên trì và tạo bước đột phá trong cải thiện môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, thuận lợi, trọng tâm là bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc, đơn giản hoá thủ tục hành chính, giảm chi phí hoạt động, hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả, hiệu lực và giảm thiểu chi phí thực thi pháp luật. KTTN được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm; xoá bỏ những rào cản bất hợp lý đối với kinh tế tư nhân; thu hẹp các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa DNTN và DN thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực, thị trường, cơ hội đầu tư, kinh doanh…
Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi để DNTN liên kết với DNNN, DN FDI, hộ kinh doanh, hợp tác xã và tham gia các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu; đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tại các DN và tạo điều kiện cho nhà đầu tư tư nhân tham gia góp vốn, nhận chuyển nhượng vốn góp nhà nước để trở thành chủ sở hữu các DN lớn sau khi Nhà nước thoái vốn; Có cơ chế, chính sách khuyến khích các DN của tư nhân mua bán, sáp nhập, hợp nhất; Nghiên cứu, xây dựng Chiến lược phát triển DN đến năm 2030, trong đó có việc hình thành các tập đoàn kinh tế của tư nhân.
Thứ tư, đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với KTTN, nhất là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chuyên ngành để vừa phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của KTTN vừa khắc phục những mặt trái của KTTN và đưa kinh tế tư nhân phát triển đúng định hướng.
Thứ năm, DNTN phải phát huy tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, dám nghĩ lớn, dám làm lớn, đột phá, năng động, sáng tạo và khát vọng phát triển, ý chí vươn lên trở thành những DN quy mô lớn, tập đoàn kinh tế tầm vóc khu vực và thế giới; Tích cực đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến theo phương châm đột phá, đi tắt, đón đầu; Tăng cường liên kết, hợp tác kinh doanh phát triển các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, nâng cao giá trị nội đại gia tăng của sản phẩm, dịch vụ, tiến lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu; Chủ động đổi mới, phát triển mô hình sản xuất kinh doanh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
2. Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân;
3. Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(*) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 5/2021