Dịch vụ logistics vẫn ngủ quên?
(Tài chính) Có một nghịch lý đã được nhắc đến nhiều trên thị trường logistics là khoảng 1.200 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics trong nước chia nhau vỏn vẹn 20% miếng bánh logistics, còn lại 80% thị phần thuộc về khoảng 25 doanh nghiệp logistics nước ngoài. Nguyên nhân do đâu và giải pháp nào giải quyết nghịch lý này?
Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới về chỉ số hoạt động logistics (LPI), ngành dịch vụ logistics Việt Nam xếp thứ 48/189 nền kinh tế. Tốc độ phát triển thị trường dịch vụ logistics trung bình đạt từ 16 - 20%/năm. Tuy nhiên, ngành dịch vụ logistics nước ta còn nhiều tồn tại. Theo Trưởng Văn phòng đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) tại Hà Nội Nguyễn Tương, đa số các nhà cung cấp dịch vụ logistics của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu làm đại lý cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia trong từng hoạt động logistics. Chi phí dịch vụ còn cao, ước chiếm khoảng 25% GDP của cả nước, cao hơn so với các nước trong khu vực.
Những nguyên nhân đã nêu kéo theo kết cục tất yếu là chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp trong nước nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp logistics lâu nay vẫn chủ yếu tập trung vào một số hoạt động giản đơn truyền thống như mua bán cước, thu phí giao nhận, khai thuê hải quan. Chưa nhiều doanh nghiệp thực sự quan tâm và đủ năng lực cung cấp các dịch vụ logisitics có giá trị gia tăng cao như kho bãi, đóng gói, quản lý đơn hàng, thay mặt chủ hàng làm các thủ tục xuất nhập khẩu như khai hải quan. Đặc biệt là các dịch vụ thay mặt cho chủ hàng, bao gồm các hoạt động kiểm tra vận đơn; dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa; giám định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; dịch vụ nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải.
Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam Nguyễn Văn Thanh nêu nên thực tế, các doanh nghiệp logistics trong nước chỉ cung cấp được một vài dịch vụ cơ bản trong chuỗi dịch vụ logistics, những dịch vụ có giá trị gia tăng cao, những đơn hàng lớn hầu hết rơi vào tay các doanh nghiệp FDI. Ông Nguyễn Văn Thanh chỉ rõ một số bất cập như bên cạnh kết cấu hạ tầng giao thông còn thấp kém, thì các quy định trọng tải cầu, đường khác nhau; rồi thủ tục thông quan còn rườm rà, mất thời gian; chi phí bôi trơn, chi phí đen, chi phí ngầm trong công tác vận chuyển còn lớn. Đặc biệt là tình trạng hạch sách, vô cảm trước khó khăn của doanh nghiệp của một bộ phận cán bộ thực thi công vụ. Tất cả điều này làm gia tăng chi phí và thời gian trong quá trình vận tải hàng hóa.
Giải pháp nào cho ngành dịch vụ logistics?
Có thể thấy rằng, mặc dù có nhiều lợi thế về cảng biển nước sâu và vị trí cửa ngõ từ Thái Bình Dương đi Ấn Độ Dương nhưng dường như chúng ta đã để tuột mất một cơ hội phát triển ngành logistics. Để từng bước phát triển ngành dịch vụ này, trước hết là lấy lại thị phần ngay trên sân nhà, nhiều chuyên gia đề xuất, cần phải thành lập một tổ chức cấp nhà nước quản lý, chỉ đạo thống nhất các hoạt động của ngành logistics phục vụ thương mại trong cả nước; tham gia tư vấn quy hoạch và chiến lược tổng thể phát triển logistics của Việt Nam. Từ đó, góp phần hoàn thiện khung thể chế pháp lý logistics minh bạch, phù hợp xu thế phát triển logistics đương đại, tạo thuận lợi thương mại và thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ này ở Việt Nam.
Việc đầu tư xây dựng ngành dịch vụ logistics cần nguồn vốn khá lớn, thời gian thu hồi vốn lâu. Phó vụ trưởng Vụ thị trường trong nước, Bộ Công thương Trần Nguyên Năm cho rằng, để có thể phát triển các trung tâm logistics, cần áp dụng mô hình huy động vốn xã hội, góp vốn từ chính quyền trung ương, địa phương (dưới dạng đất đai) và doanh nghiệp; ủng hộ và hỗ trợ sự liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp góp vốn đầu tư hạ tầng, cùng khai thác và chuyển giao công nghệ thông tin, thương mại điện tử và liên kết hợp tác trong cung cấp các dịch vụ chuyên sâu là chuyên ngành. Đồng thời, chính quyền cũng cần có các chính sách hỗ trợ logistics phát triển thông qua quy hoạch đất đai, hạ tầng; tăng cường các quan hệ thương mại, kinh tế quốc tế và cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại, vận tải.