Điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm tra quyết toán dự án

Theo chinhphu.vn

Trường hợp tổ chức thực hiện các công việc về quản lý chi phí đầu tư xây dựng như: Xác định, thẩm tra tổng mức đầu tư xây dựng; lập, thẩm tra hồ sơ thanh toán, quyết toán vốn đầu tư xây dựng;... thì phải có chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng.

Ảnh minh họa. Nguồn: interrnet
Ảnh minh họa. Nguồn: interrnet

Công ty TNHH Tư vấn quyết toán xây dựng Việt Nam (TP. Hồ Chí Minh) tham khảo Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện kèm theo Luật số 03/2016/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư thì không thấy có ngành nghề “Kinh doanh dịch vụ thẩm tra quyết toán dự án hoàn thành” mà chỉ có “Kinh doanh dịch vụ quản lý chi phí đầu tư xây dựng”.

Tuy nhiên, theo Khoản 1, Điều 10 Thông tư 17/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn về năng lực của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xây dựng, tổ chức phải có chứng chỉ năng lực khi tham gia hoạt động xây dựng thuộc lĩnh vực “Quản lý, thẩm tra chi phí đầu tư xây dựng”.

Qua Hệ thống Tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp, Công ty hỏi ngành nghề tư vấn thẩm tra quyết toán dự án hoàn thành có cần chứng chỉ năng lực để hoạt động không?

Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau:

Theo quy định tại Khoản 19, Điều 1 Nghị định số 42/2017/NĐ-CP ngày 5/4/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng thì tổ chức khi tham gia hoạt động xây dựng lĩnh vực quản lý chi phí đầu tư xây dựng phải có chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng.

Do vậy, trường hợp tổ chức thực hiện các công việc về quản lý chi phí đầu tư xây dựng như: Xác định, thẩm tra tổng mức đầu tư xây dựng; lập, thẩm tra hồ sơ thanh toán, quyết toán vốn đầu tư xây dựng;... thì phải có chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng theo quy định nêu trên.

Cá nhân là chủ trì thực hiện các công việc phải có chứng chỉ hành nghề định giá xây dựng theo quy định tại Điều 52 Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng.