Doanh thu kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài?
Ngày 07/8/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2017/NĐ-CP, trong đó quy định rõ về doanh thu từ hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Theo quy định tại Nghị định số 93/2017/NĐ-CP, kể từ ngày từ 25/09/2017, doanh thu từ hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bao gồm:
Thứ nhất, thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự: Thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay, thu lãi từ kinh doanh, đầu tư chứng khoán nợ, thu từ nghiệp vụ bảo lãnh, thu lãi cho thuê tài chính, thu lãi từ nghiệp vụ mua bán nợ, thu khác từ hoạt động tín dụng.
Thứ hai, thu nhập từ hoạt động dịch vụ: Thu từ dịch vụ thanh toán; Thu từ dịch vụ ngân quỹ; Thu từ nghiệp vụ ủy thác và đại lý; Thu từ hoạt động dịch vụ khác.
Thứ ba, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng: Thu từ kinh doanh ngoại tệ; thu lãi chênh lệch tỷ giá; thu từ kinh doanh vàng; thu từ các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ.
Thứ tư, thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán (trừ cổ phiếu).
Thứ năm, thu từ hoạt động góp vốn, chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần.
Thứ sáu, thu từ hoạt động khác: Thu từ các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro (bao gồm cả các khoản nợ đã được xóa nay đòi được); Thu từ các công cụ tài chính phái sinh khác; Thu từ nghiệp vụ mua bán nợ; Thu từ chuyển nhượng, thanh lý tài sản; Thu từ hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn; thu từ hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Thứ bảy, thu nhập khác theo quy định của pháp luật.
Cũng theo quy định tại Nghị định số 93/2017/NĐ-CP, các khoản thu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được xác định phù hợp với các chuẩn mực kế toán Việt Nam và các quy định của pháp luật có liên quan, có hóa đơn hoặc chứng từ hợp lệ và phải được hạch toán đầy đủ vào doanh thu.