Dung hòa phát triển kinh tế với các rủi ro khí hậu


Việt Nam đang ngày càng chứng kiến nhiều tác động của biến đổi khí hậu lên sự phát triển của đất nước và hiện đang phải trả lời với những câu hỏi quan trọng về giải pháp ứng phó. Báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam (CCDR) của Ngân hàng Thế giới đề xuất cho Việt Nam các giải pháp giúp cân bằng các mục tiêu phát triển kinh tế với rủi ro khí hậu ngày càng tăng.

Lễ công bố báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển (ngày 14/7/2022)
Lễ công bố báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển (ngày 14/7/2022)

Sau hơn 2 thập kỷ tăng trưởng ổn định, Việt Nam đặt ra mục tiêu đầy tham vọng là đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Tuy nhiên, Việt Nam phải đối mặt với những rủi ro ngày một nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, đe dọa mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.

Theo Báo cáo CCDR của Ngân hàng Thế giới được công bố vào tháng 7/2022, 100 triệu người dân Việt Nam nằm trong nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước sự tàn phá của biến đổi khí hậu, đối mặt với những hiểm họa đặc biệt là dọc theo các vùng trũng ven biển và đồng bằng ven sông rộng lớn của đất nước do mực nước biển dâng cao, bão và lũ lụt.

Biến đổi khí hậu không chỉ đặt ra thách thức ngày càng nghiêm trọng đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp của Việt Nam mà còn làm giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu của quốc gia trên trường quốc tế trong cả công nghiệp chế biến, chế tạo và nông nghiệp.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế, đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh của đất nước đã dựa vào năng lượng sản xuất từ than đá, một nguồn năng lượng ra lượng phát thải khí nhà kính (KNK) đáng kể. Tuy không đóng góp nhiều vào khí nhà kính (KNK) toàn cầu với tỷ trọng chỉ 0,8% lượng phát thải của thế giới nhưng chỉ trong hai thập kỷ qua Việt Nam đã nổi lên là một trong những quốc gia có lượng phát thải KNK bình quân đầu người tăng nhanh nhất trên thế giới.

Trong giai đoạn 2000 - 2015, khi tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người tăng từ 390 USD lên 2.000 USD thì lượng khí thải carbon dioxide (CO2) cũng tăng gần gấp bốn lần. Hơn nữa, phát thải KNK của Việt Nam gắn liền với tình trạng ô nhiễm không khí có hại cho sức khỏe con người và năng suất lao động đang hoành hành tại nhiều thành phố, đặc biệt là Hà Nội.

Để đối phó với những xu hướng này, Việt Nam cần áp dụng mô hình phát triển mới dựa trên hai lộ trình – thích ứng với biến đổi khí hậu và xây dựng khả năng chống chịu, và giảm thiểu biến đổi khí hậu bằng cách khử carbon trong quá trình tăng trưởng bằng cách cắt giảm lượng phát thải và hướng nền kinh tế theo hướng giảm dần các nguồn năng lượng thâm dụng carbon. Nếu được thiết kế hiệu quả thì hai lộ trình này không chỉ giúp đất nước đạt được các mục tiêu về khí hậu mà còn thúc đẩy GDP bình quân đầu người tăng hơn 5% một năm - tỷ lệ trung bình cần thiết để trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.

Tuy nhiên, thành quả tích cực như vậy không phải dễ dàng đạt được ngay. Theo Ngân hàng Thế giới, dự kiến, cần đầu tư khoảng 368 tỷ USD (tính theo giá trị hiện tại ròng) trong giai đoạn 2022 - 2040 vào cơ sở hạ tầng, công nghệ mới và các chương trình xã hội để đảm bảo “chuyển dịch công bằng” hướng tới nền kinh tế phát thải ròng bằng “0” và có khả năng chống chịu với khí hậu.

Ước tính này tính theo giá trị hiện tại bằng cách sử dụng tỷ lệ chiết khấu là 6% theo hướng dẫn của Ngân hàng Thế giới về phân tích kinh tế. Tỷ lệ chiết khấu xã hội thường được sử dụng để xác định giá trị hiện tại cho chi phí và lợi ích sẽ xảy ra sau này. Trong bối cảnh hoạch định chính sách về biến đổi khí hậu, chúng được coi là rất quan trọng để tính toán xem xã hội ngày nay cần đầu tư bao nhiêu để hạn chế tác động của biến đổi khí hậu trong tương lai.

Đi kèm các khoản đầu tư, theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam còn cần xây dựng kế hoạch cải cách cơ cấu và chính sách, bao gồm các công cụ định giá carbon và các phương án cải cách thể chế khác để khuyến khích thay đổi hành vi trong khu vực nhà nước và khu vực tư nhân.