ESG thành “tài sản tín chấp”: Hướng đi mới cho doanh nghiệp trong kỷ nguyên bền vững
Thay vì chỉ hỏi "vay vốn ở đâu", doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) hôm nay phải trả lời câu hỏi quan trọng hơn: "Chúng tôi cần chứng minh điều gì để được cấp vốn?". Báo cáo ESG (môi trường, xã hội, quản trị) có thể coi là ‘tài sản tín chấp’ — bằng chứng về quản trị minh bạch và cam kết phát triển bền vững — giúp DNVVN tiếp cận vốn thuận lợi hơn.
Quan điểm này được bà Hà Thu Thanh — Phó Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam (VBCSD), Chủ tịch Viện Thành viên Hội đồng Quản trị Việt Nam (VIOD), chia sẻ tại Diễn đàn Doanh nghiệp Phát triển Bền vững Việt Nam (VCSF) lần thứ 12 diễn ra ngày 22/8 với chủ đề "Phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới: Biến khát vọng vươn mình thành hành động”. Từ góc nhìn quản trị, đây là hướng đi thực dụng nhằm hạ chi phí vốn, tăng sức chống chịu và căn chỉnh lộ trình chuyển đổi xanh – số theo chuẩn khu vực.
Quản trị làm trụ cột triển khai ESG
Theo bà Hà Thu Thanh, kinh doanh bền vững là trách nhiệm của cả cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. VBCSD giữ vai trò điều phối hệ sinh thái doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân; VIOD – định chế độc lập về quản trị công ty (QTCT) – đồng hành các kỳ đánh giá ESG hằng năm.
Dữ liệu từ Bộ Chỉ số Doanh nghiệp Bền vững (CSI) những năm gần đây cho thấy cấu phần quản trị (G) tăng rõ rệt, tạo nền cho môi trường (E) và xã hội (S) cùng cải thiện. Cách tiếp cận “quản trị tốt trước, bền vững sau” giúp doanh nghiệp siết khung kiểm soát, minh bạch thông tin, phân quyền – phân trách nhiệm và chuẩn mực liêm chính, từ đó dẫn dắt chuyển đổi xanh – chuyển đổi số theo lộ trình trật tự và hiệu quả chi phí.
Ở góc nhìn thị trường, QTCT tốt đang dịch từ “yêu cầu tuân thủ” thành “đòn bẩy định giá”: nơi hội đồng quản trị có cấu trúc lành mạnh, quản trị rủi ro vận hành tốt, công bố thông tin có kỷ luật, nơi đó chi phí vốn (cost of capital) có xu hướng thuận lợi hơn nhờ niềm tin của nhà đầu tư và chủ nợ. Điều này càng rõ khi doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng áp chuẩn ESG: tiêu chí lựa chọn nhà thầu phụ không chỉ là giá và tiến độ, mà còn an toàn – sức khỏe nghề nghiệp, liêm chính và kế hoạch giảm phát thải.
Một điểm nhấn quan trọng là VBCSD và VIOD đang phối hợp cùng các doanh nghiệp các doanh nghiệp FDI lớn và các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK như Nestlé, Unilever, SABECO, Vinamilk, Traphaco…tiên phong trong việc QTCT gắn với ESG, để lan tỏa mô hình “lấy quản trị làm trụ cột”, dùng G làm thước đo hiệu chỉnh E và S theo ngành và quy mô - để đồng hành, dẫn dắt DNVVN. Mục tiêu không chỉ là thực hành ESG trong nội bộ mà còn đóng vai “đầu tàu” lan tỏa tới cộng đồng DNVVN. Sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp niêm yết và DNVVN tạo nên một hệ sinh thái đồng bộ, trong đó chuẩn mực ESG được phổ biến và trở thành điều kiện để DNVVN gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu.
ASEAN 2026–2030 ưu tiên tài chính xanh, thích ứng khí hậu, minh bạch
Ở cấp khu vực, Kế hoạch Chiến lược Cộng đồng Kinh tế ASEAN giai đoạn 2026–2030 định hướng “One ASEAN – One Vision”, nhấn mạnh dòng vốn xanh, giảm phát thải, tăng khả năng chống chịu, đồng thời hài hòa tiêu chuẩn và minh bạch thị trường. Đây là bối cảnh quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam định vị lộ trình ESG, nhất là khi chuỗi giá trị liên kết sâu và tiêu chuẩn công bố thông tin được đơn giản hóa nhưng đòi hỏi nhất quán dữ liệu.
Năm 2025, ASEAN ban hành Hướng dẫn công bố ESG đơn giản cho DNVVN (“đơn giản nhưng hữu ích cho quyết định”): khuyến khích, khả thi, ngôn ngữ gần gũi, tập trung dữ liệu tối thiểu. Doanh nghiệp không cần lập tức dựng bộ máy báo cáo cồng kềnh; hãy bắt đầu từ năng lượng – nước – chất thải, an toàn lao động – bình đẳng – đào tạo, cấu trúc quản trị – kiểm soát nội bộ – chống tham nhũng; rồi mở rộng khi yêu cầu của đối tác và thị trường tài chính tăng.
Trong nước, chính sách đang dịch chuyển theo hướng giúp doanh nghiệp “làm đúng – làm đủ – làm được”: khung quản trị rủi ro khí hậu theo ngành, chương trình chuẩn hóa dữ liệu (baseline, mục tiêu giảm phát thải, lộ trình chuyển dịch năng lượng), hướng dẫn báo cáo theo quy mô, và cơ chế công nhận kết quả đánh giá bên thứ ba. Môi trường VUCA (biến động, bất định, phức tạp, mơ hồ) – kèm nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng – đang thúc ép doanh nghiệp nội địa hóa chuẩn, tăng minh bạch để đứng vững. Khi tiêu chuẩn ASEAN hòa nhịp thông lệ quốc tế, chi phí giao dịch giảm, rủi ro tuân thủ hạ, kết nối thị trường tăng.
Nhìn từ lăng kính tài chính, ưu tiên tài chính xanh và minh bạch giúp hình thành “ngôn ngữ chung” giữa doanh nghiệp và ngân hàng – xoay quanh dữ liệu rủi ro, năng lực quản trị, kế hoạch chuyển đổi. Đó là chìa khóa để dịch chuyển câu chuyện bền vững thành điều kiện tín dụng và lãi suất phù hợp rủi ro.

CSI cho DNVVN và “tài sản phi tài chính” mở khóa vốn
Tại Việt Nam, DNVVN chiếm khoảng 98% số doanh nghiệp, là động cơ việc làm và đổi mới, nhưng thường thiếu tài sản thế chấp, hồ sơ tín dụng mỏng, năng lực báo cáo chưa đồng đều. Vì vậy bà Thanh cho rằng, với cách nhìn mới – coi báo cáo ESG như “tài sản phi tài chính” – sẽ mở lối tiếp cận vốn theo năng lực quản trị và giảm rủi ro, cho doanh nghiệp thay vì chỉ dựa vào tài sản cứng. Khi doanh nghiệp chứng minh Hội đồng quản trị (HĐQT) và ban kiểm soát nội bộ vận hành bài bản, an toàn lao động – nhân sự chặt chẽ, lộ trình giảm phát thải khả thi, họ đang trình bày một “bảng cân đối ẩn” về sức chống chịu và khả năng thực thi, qua đó trở thành điểm cộng trong thẩm định tín dụng của ngân hàng.
Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Phát triển Bền vững Việt Nam, phiên bản/ứng dụng CSI dành cho DNVVN được giới thiệu theo hướng tinh gọn và phân tầng (từ foundation đến advanced). Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam và VIOD cùng khối ngân hàng dự kiến phối hợp từ 2026: đào tạo – tư vấn, thử nghiệm ghi nhận kết quả đánh giá bên thứ ba làm đầu vào xếp hạng tín dụng nội bộ. Khi đó, “điểm ESG” không còn là huy hiệu truyền thông, mà trở thành biến số rủi ro ảnh hưởng tới biên lãi vay, kỳ hạn, điều kiện bảo đảm, hạn mức.
Để “tài sản phi tài chính” thực sự mở khóa vốn, cần ba điều kiện song hành:
Một là, chuẩn dữ liệu rõ ràng, kiểm chứng được: baseline phát thải/ năng lượng/ nước, tai nạn lao động, tỷ lệ đào tạo/ nữ quản lý, tuân thủ môi trường… có lưu trữ và đối soát.
Hai là, đánh giá tương xứng rủi ro – chi phí: DNVVN dùng bộ tiêu chí ngắn, mẫu minh chứng, công cụ tự đánh giá; doanh nghiệp lớn áp dụng kiểm toán độc lập định kỳ.
Ba là, liên thông “điểm ESG” – “điểm tín dụng” minh bạch: ngân hàng nêu trọng số, ngưỡng tối thiểu và cách quy đổi sang ưu đãi lãi suất/điều kiện tín chấp.
Chuỗi cung ứng là cầu nối cho doanh nghiệp nhỏ: Khách hàng đầu chuỗi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc doanh nghiệp đầu chuỗi trong nước đưa yêu cầu tối thiểu, hỗ trợ công cụ đo, thậm chí chia sẻ chi phí kiểm toán theo lô. Doanh nghiệp đáp ứng tốt được ưu tiên đơn hàng, rút ngắn thẩm định tín dụng nhờ hồ sơ ESG đã được thẩm tra. Ở phía cung vốn, ngân hàng có thể thiết kế sản phẩm “tín chấp ESG” với điều kiện cụ thể: có báo cáo theo CSI/Hướng dẫn ESG đơn giản của ASEAN tối thiểu một kỳ, mục tiêu giảm phát thải theo cường độ, chính sách an toàn lao động đã triển khai, và đầu mối phụ trách ESG ở cấp hội đồng quản trị/ban điều hành.
Một lợi ích khác ít được nói tới: ESG giúp định hình chiến lược đầu tư. Khi dữ liệu năng lượng – phát thải được chuẩn hóa, doanh nghiệp tính được suất đầu tư và thời gian hoàn vốn, dễ tiếp cận vốn xanh hoặc hỗ trợ kỹ thuật. Từ báo cáo “hậu kiểm”, doanh nghiệp chuyển sang quản trị “tiền kiểm”, coi ESG là phương pháp quản trị rủi ro tích hợp – từ vận hành đến danh tiếng và pháp lý. Với DNVVN, đây là lộ trình theo bậc: dựa vào chuẩn khu vực và hệ sinh thái hỗ trợ để biến cam kết thành năng lực, và năng lực thành lợi thế cạnh tranh bền vững.