EU bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý cho Việt Nam
Ông Lưu Đức Thanh, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, danh sách chỉ dẫn địa lý Việt Nam đề xuất có 41 chỉ dẫn địa lý, tuy nhiên EU chỉ đồng ý bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA) có hiệu lực.
Sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý chủ yếu là hàng rau quả (chiếm 49%), còn lại sản phẩm cây công nghiệp- chế biến chiếm 15%, thủy sản và chế biến từ thủy sản 13%, sản phẩm khác là 13%.
Trong khi đó, Việt Nam đồng ý bảo hộ 169 chỉ dẫn địa lý cho EU. Cơ cấu sản phẩm được bảo hộ chứng nhận chỉ dẫn địa lý của EU chủ yếu sản phẩm chủ yếu là rượu và phomat, rất ít các sản phẩm tươi sống.
Những thông tin này được ông Lưu Đức Thanh đưa ra tạiHội thảo "Chỉ dẫn địa lý và những cam kết trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tư do giữa Việt Nam-EU", do Bộ Công Thương tổ chức ngày 29/6.
Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay Việt Nam mới chỉ có duy nhất một sản phẩm nước mắm Phú Quốc được cấp chỉ dẫn địa lý tại châu Âu, chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trong số 7.000 chỉ dẫn địa lý đã được cấp tại thị trường này.
Ông Trần Việt Thanh, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, Việt Nam có rất nhiều sản phẩm chất lượng mang đặc trưng vùng miền, tuy vậy, với một thị trường rộng lớn như EU thì việc Việt Nam mới được bảo hộ duy nhất một sản phẩm tại thị trường cũng là vấn đề đáng quan tâm.
“Việc nhận thức quản lý với tài sản này còn bất cập, thiếu hoạt động quảng bá, do đó hoạt động kiểm soát chỉ dẫn địa lý nhất là chất lượng gắn với chỉ dẫn địa lý cần được làm tốt hơn nữa”, ông Thanh nói.
Trước một thị trường khó tính, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm từ châu Âu trong việc xây dựng hệ thống kiểm soát chỉ dẫn địa lý, qua đó có điều kiện nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu vào thị trường rộng lớn này.
Còn theo ý kiến của bà Jana Herceg, Phó trưởngBan kinh tế-Thương mại, phái đoàn EU tại Việt Nam, với nhiều sản phẩm nổi tiếng như thanh long, cà phê, chè... Việt Nam có khả năng khai thác để hưởng lợi lớn từ việc đăng ký chỉ dẫn địa lý.
Tất nhiên, để khai thác được lợi thế này còn nhiều công việc ở phía trước trong đó có trách nhiệm của cơ quan quản lý lẫn người sở hữu chỉ dẫn địa lý.
Theo khuyến cáo của bà Jana Herceg, cơ quan quản lý cần thiết lập cơ chế để người sản xuất hưởng lợi từ đó giúp sản phẩm có thể đưa ra thị trường và xuất khẩu được nhiều hơn. Người sở hữu chỉ dẫn địa lý cần tập trung chất lượng, nâng cao nhãn hiệu, thương hiệu, marketing sản phẩm.