Giải pháp giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận hiệu quả các nguồn vốn
Huy động vốn là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp trong phát triển sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu các kênh dẫn vốn chính, cũng như thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, bài viết đề xuất giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận hiệu quả các nguồn vốn trong bối cảnh mới.
Một số kênh dẫn vốn chính cho doanh nghiệp
Hiện nay, trên thị trường hình thành một số kênh dẫn vốn chính cho DN Việt Nam như:
Nguồn vốn từ chủ sở hữu và người thân: Trong giai đoạn mới thành lập, nguồn vốn chủ yếu để DN phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) thông thường là vốn chủ sở hữu (VCSH) và huy động từ người thân quen. Nguyên nhân là do quy mô của các DN mới thành lập chủ yếu nhỏ và vừa; năng lực tài chính yếu; hoạt động SXKD còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và lợi nhuận thấp, dẫn tới khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn khác, nhất là nguồn vốn tín dụng ngân hàng (TDNH).
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, hiện có tới 98% số trong tổng số DN ở cả nước thuộc nhóm DN nhỏ và vừa. Trong đó, ở cả nước, số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 42%, số DN có vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm 37,03%, số DN có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 8,5%... Như vậy, quy mô vốn của các DN Việt Nam rất nhỏ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh hiện nay.
Nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng (TCTD): Nguồn vốn TDNH luôn là kênh quan trọng đối với mọi loại hình DN. Đây là nguồn vốn để DN đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có khoảng 75% DN tại Việt Nam có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng, nhưng không phải DN nào cũng tiếp cận được nguồn vốn này. Báo cáo của Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng cho thấy, số DN được bảo lãnh vay vốn trong giai đoạn vừa qua là rất ít.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, hiện có tới 98% số trong tổng số DN ở cả nước thuộc nhóm DN nhỏ và vừa. Trong đó, ở cả nước, số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 42%, số DN có vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm 37,03%, số DN có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 8,5%... Như vậy, quy mô vốn của các DN Việt Nam rất nhỏ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh hiện nay.
Điều tra về thực trạng các DN mới công bố gần đây của Cục Phát triển DN (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, có 83% DN cho biết không thể vay vốn nếu không có tài sản thế chấp; 60% DN nhận thấy lãi suất và các điều kiện cho vay đối với DN tư nhân luôn khó khăn hơn so với các DN nhà nước; 46% DN phản ánh thủ tục vay vốn còn rất phiền hà và 39% DN được hỏi cho biết ngân hàng, các TCTD áp đặt điều kiện tín dụng bất lợi cho DN.
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Lợi nhuận không chia là một phần trong lợi nhuận của DN được tích luỹ lại để tái đầu tư. Hiện nay, ở Việt Nam, nguồn vốn từ lợi nhuận để lại chưa được quan tâm đúng mức, bởi vì trong khối các DN nhà nước, các DN được bao cấp về tài chính, nên nhu cầu nguồn vốn là không nhiều. Trong khi đó, hầu hết các DN đều hoạt động không hiệu quả, nên nguồn vốn từ lợi nhuận để lại là không có.
Các DN ngoài quốc doanh cũng tương tự, do mâu thuẫn giữa lợi tức cho cổ đông và lợi nhuận để lại tái sản xuất là từ cùng một nguồn lợi nhuận sau thuế. Các DN này có quy mô nhỏ, chưa có thương hiệu, nên thường đảm bảo mức lợi tức cổ phần cao, do vậy, lợi nhuận để lại của các DN ngoài quốc doanh rất nhỏ, không đủ phục vụ nhu cầu tái sản xuất mở rộng.
Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu: Phát hành cổ phiếu là một kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hạn cho DN một cách rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán (TTCK). Hiện nay, việc thu hút nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu là rất cần thiết và hoàn toàn có khả năng thực hiện, DN cũng có thể xây dựng hình ảnh thương hiệu từ phương thức này. Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích sở hữu hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với vốn của tổ chức phát hành.
Theo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, đến hết tháng 3/2021, vốn hóa thị trường chứng khoán đạt 7.253 nghìn tỷ đồng bằng 116,8% GDP năm 2020. Hàng hóa chủ yếu của thị trường này là cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, trái phiếu, chứng quyền bảo đảm, quỹ đầu tư mô phỏng và chứng khoán phái sinh với số lượng tài khoản đầu tư trên 3,03 triệu tài khoản.
Nguồn vốn từ tín dụng thương mại (TDTM): TDTM còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này được hình thành tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.
Ở Việt Nam, có đến 84% DN có nhu cầu sử dụng TDTM để phục vụ cho quá trình hoạt động SXKD. Nguồn vốn TDTM có ảnh hưởng rất lớn, không chỉ với các DN mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế, nó là một kênh đảm bảo khả năng thanh toán của DN trong ngắn hạn, giúp các DN tự chủ tài chính, giúp đỡ lẫn nhau. Các công cụ chủ yếu được sử dụng là thương phiếu, như hối phiếu nhận nợ, hối phiếu đòi nợ, séc… Tuy nhiên, huy động vốn TDTM chủ yếu chỉ dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa những người mua - người bán, dẫn đến hạn chế.
Nguồn vốn bằng phát hành trái phiếu: Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là DN (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu DN), một tổ chức chính quyền như Kho bạc Nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc DN hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh).
Những năm gần đây, các DN Việt Nam đã chuyển sang bán trái phiếu để huy động vốn, tuy nhiên, sau khi Nghị định số 81/2020/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành, trong đó quy định: DN phát hành trái phiếu tại thị trường trong nước bị hạn chế giao dịch dưới 100 nhà đầu tư trong vòng một năm từ ngày hoàn thành đợt phát hành khiến cho kênh trái phiếu, thì phương thức này không còn được DN lựa chọn để huy động vốn phát triển SXKD.
Thuê tài chính: Trong bối cảnh tiếp cận vốn trung, dài hạn tới đây sẽ khó khăn hơn, khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện lộ trình giảm dần tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, thì thuê tài chính sẽ là một trong những giải pháp quan trọng giúp DN vượt qua các rào cản tiếp cận vốn.
Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, đối với hình thức cấp tín dụng này không bắt buộc khách hàng phải thực hiện thế chấp tài sản để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán. DN có thể đầu tư tài sản mới thông qua hình thức thuê tài chính để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Với hình thức này, DN sẽ không bị áp lực tài chính khi phải tập trung nguồn vốn lớn để đầu tư lúc đầu, thay vào đó DN chỉ cần thanh toán tiền thuê hàng tháng trong thời hạn thuê với thời hạn thuê thông thường khoảng từ 03 đến 05 năm. Chính vì vậy, mặc dù có số vốn hạn chế, DN vẫn hoàn toàn có thể mạnh dạn mở rộng hoạt động SXKD.
Tính đến nay, Việt Nam có 11 công ty cho thuê tài chính, gồm 7 công ty Việt Nam, 1 công ty liên doanh và 3 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài. Về quy mô hoạt động của các công ty cho thuê tài chính còn khá hạn chế. Hiện tổng dư nợ cho thuê tài chính khoảng 90.000 tỷ đồng - quy mô tương đối nhỏ so với quy mô của hệ thống các TCTD. Không thể phủ nhận nguồn vốn từ các công ty này ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn của DN dù còn nhiều hạn chế như chi phí thuê cao.
Giải pháp giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận hiệu quả các nguồn vốn
Đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng trên khắp toàn cầu, tác động mạnh mẽ và làm suy thoái nền kinh tế thế thế giới. Không ngoại lệ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề trên nhiều phương diện, nhất là khu vực DN. Nhằm giúp DN Việt Nam tiếp cận hiệu quả các kênh dẫn vốn, đầu tư phát triển SXKD, tác giả khuyến nghị các cơ quan quản lý, TCTD, hiệp hội ngành nghề và bản thân các DN cần tập trung triển khai một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đối với các cơ quan quản lý.
Để ứng phó với tác động của đại dịch Covid-19, các DN Việt Nam đang có xu hướng tiếp cận các kênh huy động vốn phi ngân hàng như: TTCK, thị trường trái phiếu và kể cả các kênh phi truyền thống khác như huy động vốn cộng đồng, huy động vốn bằng hình thức thuê tài chính, huy động từ TDTM… Trong đó, hình thức gọi vốn cộng đồng hay gọi vốn thông qua tiền mã hóa ngày càng trở nên phổ biến và đa dạng về hình thức. Do vậy, các cơ quan quản lý cần xây dựng các chính sách vĩ mô hỗ trợ DN tiếp cận hiệu quả các nguồn vốn trên. Theo đó, cần có lộ trình, giải pháp khuyến khích đồng bộ các thị trường tài chính, đa dạng hóa các kênh huy động vốn trong nên kinh tế; Hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất, để đảm bảo lãi suất trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường…
Cùng với đó, NHNN tiếp tục cung ứng vốn qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các MHTM, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt để điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm tạo điều kiện tối đa để DN có thể tiếp cận được vốn vay.
Thứ hai, đối với các TCTD
Các TCTD tiếp tục xây dựng chính sách tín dụng phù hợp đối với từng loại hình DN. Đồng thời, nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của DN sau khi giải ngân; Tăng cường quản lý rủi ro, quản lý nợ xấu… Đồng thời, phân tích và đánh giá chính xác mức sinh lời của DN để từ đó xác định mức lãi suất cho vay hợp lý, đảm bảo đôi bên cùng phát triển.
Các TCTD cần nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn về lãi suất cho vay đối với khách hàng để giúp DN phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Đồng thời, thường xuyên và kịp thời thực hiện các chính sách ưu đãi, chia sẻ khó khăn về lãi suất với các khách hàng. Xem xét, đẩy mạnh việc cho vay thông qua tín chấp, đánh giá hiệu quả và lợi nhuận của các dự án đầu tư để cấp vốn cho các DN. Chủ động đánh giá lại các khoản nợ, gia hạn nợ, đáo nợ, cùng DN tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất. Cơ cấu lại nợ, giãn nợ, ưu đãi tín dụng cho DN, nếu DN chứng minh được các nguồn thu để trả nợ ngân hàng; Phát triển hình thức thuê tài chính để giúp DN nhanh chóng đổi mới công nghệ...
Thứ ba, đối với các hiệp hội ngành nghề
Các hiệp hội ngành nghề tập trung hướng dẫn DN triển khai trình tự các bước vay vốn; Góp ý cho DN cách lập phương án sản xuất kinh doanh và chuẩn bị hồ sơ vay vốn… Qua đó, giúp DN nhanh chóng tiếp cận hiệu quả các kênh dẫn vốn, kịp thời phát triển SXKD.
Thứ tư, đối với các DN
Các DN sớm hoàn thiện cơ chế quản lý, kế hoạch kinh doanh, tài chính, đầu tư công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm; Lựa chọn các phương án kinh doanh hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực SXKD chủ chốt, có thế mạnh, có khả năng tạo ra dòng tiền bền vững không đầu tư dàn trải, mạo hiểm; Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán cho DN.
Đặc biệt, các DN cũng cần quan tâm đến công tác phân tích, lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh, tăng cường quản lý tài chính… vừa chủ động tìm kiếm, nắm bắt, hiện thực hóa cơ hội, đồng thời củng cố các điều kiện để tiếp cận các nguồn vốn vay.
Đồng thời, các DN cần đổi mới hệ thống quản trị nội bộ. Minh bạch vấn đề tài chính để sử dụng hiệu quản nguồn lực, giảm thiểu chi phí, rủi ro cho cả DN và ngân hàng, tạo lòng tin trên thị trường... Chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Tích cực tham gia các hiệp hội DN để tiếp cận thông tin về các chính sách, chương trình hỗ trợ đối với DN của Chính phủ, Nhà nước cũng như các TCTD.
Tài liệu tham khảo:
1. Ngọc Quỳnh (2021), Giải pháp nào huy động vốn cho doanh nghiệp trong tình hình mới?, https://bnews.vn/giai-phap-nao-huy-dong-von-cho-doanh-nghiep-trong-tinh-hinh-moi/194842.html;
2. Hàn Ni (2020), Đua nhau huy động vốn từ trái phiếu, Báo Sài Gòn giải phóng;
3. Thùy Linh (2020), Doanh nghiệp yếu kém hết đường huy động vốn bằng trái phiếu, https://vietnamfinance.vn/doanh-nghiep-yeu-kem-het-duong-huy-dong-von-bang-trai-phieu-20180504224241131.htm;
4. Từ 2021, công ty TNHH có thể huy động vốn bằng nhiều cách, https://luatvietnam.vn/doanh-nghiep/tu-2021-cong-ty-tnhh-co-the-huy-dong-von-bang-nhieu-cach-561-29353-article.html.
(*) ThS. Trần Thị Thanh Hương, Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng - Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp.
(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2021.