Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi chương trình mục tiêu quốc gia qua KBNN cấp tỉnh, thành phố
(Tài chính) Hiện nay, nguồn vốn đầu tư cho các dự án chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) rất lớn, từ 12 chương trình giai đoạn 2006-2010 tăng lên 16 chương trình giai đoạn 2012-2015. Vì vậy, việc tăng cường kiểm soát chi ngân sách nhà nước (NSNN), đầu tư công nói chung và chi CTMTQG nói riêng qua Kho bạc Nhà nước (KBNN) là hết sức quan trọng, góp phần giám sát quá trình sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước một cách có hiệu quả, là một biện pháp hữu hiệu để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và đảm bảo an sinh xã hội... là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Việc triển khai ứng dụng chương trình ĐTKB-LAN trên mạng máy tính đã đưa công tác quản lý, kiểm soát vốn CTMTQG vào nề nếp, theo dõi dự án một cách khoa học, chặt chẽ, hạn chế những sai sót. Nhờ vậy, số liệu liên quan đến các dự án đầu tư được quản lý chặt chẽ theo quy trình thống nhất, chất lượng công tác kiểm soát chi cũng được nâng lên một cách rõ rệt.
Một số hạn chế trong kiểm soát chi CTMTQG
Về cơ chế chính sách: Khi phân tích về 2 khoản chi đầu tư và chi thường xuyên của CTMTQG, chúng ta dễ thấy rằng 2 hai khoản chi này có tính chất khác nhau (một bên là chi thường xuyên ổn định theo định mức chế độ hàng tháng, quý, năm còn chi đầu tư là không ổn định theo giai đoạn đầu tư và tiến độ thực hiện dự án). Tuy nhiên theo chế độ hiện hành thì lại quy định gần như là một cơ chế quản lý chung cho cả hai loại chi này. Đây chính là sự bất hợp lý. Điều này lý giải tại sao đến 31/12 hàng năm và 31/01 hàng năm các chủ đầu tư chen chân đến KBNN để “giải ngân” hết kế hoạch vốn.
Về tổ chức kiểm soát thanh toán: Việc kiểm soát chi CTMTQG do nhiều phòng khác nhau đảm nhiệm, mỗi phòng đảm nhiệm kiểm soát một số loại vốn nhất định. Vì vậy, khi một dự án được đầu tư bằng nhiều loại vốn khác nhau dẫn đến bị chồng chéo nhiệm vụ. Điều này chứng tỏ chưa thể hiện sự chuyên môn hóa cao trong kiểm soát chi NSNN.
Việc kiểm soát chi dự án đầu tư: Bằng nhiều nguồn vốn, nhiều cấp ngân sách mặc dù đã có quy định của KBNN trên nguyên tắc nếu KBNN tỉnh kiểm soát hồ sơ thì KBNN huyện nơi có nguồn vốn tham gia đầu tư dự án chỉ thực hiện chuyển tiền tạm ứng, thanh toán trên cơ sở kết quả kiểm soát chi của KBNN tỉnh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên trên thực tế, vẫn còn tình trạng bị trùng lặp trong khâu kiểm soát, cả Kho bạc tỉnh và Kho bạc huyện cùng tham gia kiểm soát chi trên một khối lượng thực hiện, chủ đầu tư phải gửi nhiều bộ hồ sơ tài liệu của cùng một dự án cho nhiều đơn vị kho bạc khác nhau.
Về phối hợp đôn đốc các đơn vị chủ đầu tư thanh toán: Thực tế hiện nay triển khai thực hiện một số dự án trong những tháng đầu năm còn chậm, nhưng về phía KBNN coi việc này là trách nhiệm của chủ đầu tư, chưa bám sát tình hình triển khai, chưa có biện pháp phối hợp đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Do vậy, chủ đầu tư khi đến thanh toán khối lượng thường rơi vào dịp cuối năm, đã gây nên tình trạng quá tải, căng thẳng cho cán bộ làm nhiệm vụ kiểm soát chi, ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian kiểm soát chi.
Về cơ chế giao dịch “một cửa”: Đã làm tăng thêm đầu mối trong thì KBNN huyện nơi có nguồn vốn tham gia đầu tư dự án chỉ thực hiện chuyển tiền tạm ứng, thanh tóan trên cơ sở kết quả kiểm soát chi của KBNN tỉnh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trên thực tế, vẫn còn tình trạng bị trùng lặp trong khâu kiểm soát, cả Kho bạc tỉnh và Kho bạc huyện cũng tham gia kiểm soát chi trên một khối lượng thực hiện, chủ đầu tư phải gửi nhiều bộ hồ sơ tài liệu của cùng một dự án cho nhiều đơn vị kho bạc khác nhau.
Hạn chế về tạm ứng và thu hồi tạm ứng: Những năm trước đây tạm ứng vốn chỉ quy định mức tạm ứng tối thiểu và không khống chế mức tạm ứng tối đa, nên số dư tạm ứng lớn và kéo dài, KBNN phải theo dõi tạm ứng qua nhiều năm. Việc thẩm tra phê duyệt quyết toán vốn CTMTQG chậm ảnh hưởng đến hạch toán và hiệu quả đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Về ứng dụng tin học trong kiểm soát thanh toán: Chương trình ĐTKB-LAN chưa thân thiện với người sử dụng, quy trình nhập số liệu, tra cứu thông tin quá nhiều màn hình, nhiều thông tin trùng lắp gây mất thời gian cho người thực hiện mà hiệu quả khai thác thông tin không cao. Khi chế độ thay đổi việc nâng cấp sửa đổi chương trình thiếu tính đồng bộ. Chương trình ĐTKB-LAN không kết nối và tích hợp được với hệ thống TABMIS. Năng lực và trình độ cán bộ làm công tác kiểm soát chi chưa đồng đều, thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ sử dụng tin học còn hạn chế, chưa theo kịp với xu thế phát triển của công nghệ hiện đại. Một bộ phận cán bộ không tích cực nghiên cứu, học tập khi Nhà nước ban hành các chế độ mới thì không thực hiện ngay mà vẫn giải quyết công việc dựa trên chế độ chính sách cũ hoặc là theo thói quen kinh nghiệm.
Ba nhóm giải giáp đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát chi
Nhóm giải pháp 1: Hoàn thiện công tác tổ chức kiểm soát
Hoàn thiện mô hình phòng Kiểm soát chi NSNN với chức năng chính là kiểm soát thanh toán tất cả các khoản chi tiêu từ NSNN, bao gồm: Chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi CTMTQG, chi thường xuyên. Mục đích của việc thành lập phòng Kiểm soát chi NSNN để chuyên môn hóa nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vào một bộ phận; phòng kế toán chỉ thực hiện chức năng chính là kế toán NSNN không thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi NSNN như hiện nay.
Về phân cấp nhiệm vụ kiểm soát chi CTMTQG, thực hiện triệt để quy định kiểm soát chi đối với các dự án được đầu tư từ nhiều nguồn vốn thuộc nhiều cấp ngân sách (tỉnh, huyện, xã) sẽ phân cấp theo nguyên tắc: Dự án do cấp nào quyết định đầu tư thì KBNN cấp đó quản lý, kiểm soát; nguồn vốn của cấp nào tham gia vào dự án thì KBNN cấp đó thực hiện thanh toán, đồng thời tăng cường sự phối hợp, chỉ đạo cảu KBNN tỉnh với KBNN huyện trong việc theo dõi, nắm bắt thông tin và thực hiện kiểm soát chi cho dự án. Hoàn thiện cơ chế giao dịch “một cửa” theo hướng, một chủ đầu tư, ban quản lý dự án chỉ đến giao dịch với một cán bộ quản lý từ đầu cho đến khi có kết quả cuối cùng, khách hàng đến giao dịch chỉ phải giao dịch với một cá bộ duy nhất của kho bạc, đó là cán bộ nghiệp vụ trực tiếp quản lý hồ sơ và giải ngân. Hoàn thiện cơ chế phân bổ kế hoạch vốn, từ thực tiễn hạn chế về cơ chế quản lý có thể kiến nghị việc thanh toán, kiểm soát chi vốn đầu tư không nên theo niên độ ngân sách mà theo tiến độ thực hiện dự án.
Nhóm giải pháp 2: Hoàn thiện nội dung kiểm soát
Hoàn thiện kiểm soát tạm ứng và thu hồi tạm ứng, đối với tạm ứng chi bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng quy định thời gian và trách nhiệm hoàn tạm ứng trong một phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Phải yêu cầu thanh toán dứt điểm các khoản đã tạm ứng kỳ trước mới cho tạm ứng kỳ này. Trường hợp không hoàn ứng được phải có đơn gia hạn thời gian hoàn ứng (tạm ứng kỳ thứ ba phải hoàn ứng dứt điểm kỳ thứ nhất).
Đối với tạm ứng vốn cho xây lắp, thiết bị: Yêu cầu quy định trong hợp đồng nhà thầu nộp bảo lãnh tạm ứng, hết thời hạn bảo lãnh mà chưa thu hồi được tạm ứng thì cần phải gia hạn bảo lãnh tạm ứng. Đồng thời, quy định tỷ lệ thu hồi tạm ứng tối thiểu qua mỗi lần thanh toán khi khối lượng thanh toán chưa đạt 80% giá trị hợp đồng theo công thức sau: Thực hiện kiểm soát cam kết chi trong điều kiện vận hành TABMIS, cam kết chi là việc các đơn vị cam kết sử dụng dự toán chi ngân sách được giao hàng năm (có thể một phần hoặc toàn bộ dự toán được giao trong năm) để thanh toán cho hợp đồng đã được ký kết giữa đơn vị dự toán với nhà cung cấp.
Quản lý, kiểm soát cam kết chi sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng nợ đọng trong thanh toán nâng cao trách nhiệm, kỷ luật tài chính không chỉ đối với cơ quan tài chính, KBNN mà còn đối với cả đơn vị dự toán, dự án đầu tư; làm lành mạnh hóa và tăng cường công tác quản lý tài chính – ngân sách, đây là một nội dung rất mới đáp ứng yêu cầu cải cách quản lý tài chính công tại Việt Nam. Vì vậy, việc triển khai thực hiện kiểm soát cam kết chi là hết sức cần thiết trong điều kiện vận hành TABMIS.
Xây dựng và áp dụng phương thức kiểm soát chi NSNN theo kết quả đầu ra, là một phương thức cấp phát NSNN tiên tiến, theo đó, nhà nước không can thiệp vào việc sử dụng các khoản kinh phí NSNN đã cấp cho các cơ quan đơn vị, mà chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó, tức là chỉ quan tâm đến kết quả đầu ra của các chương trình, mục tiêu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Thủ trưởng đơn vị được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm việc sử dụng kinh phí đảm bảo thực hiện được những nhiệm vụ chi. Như vậy, với phương thức cấp phát này thì các ràng buộc bằng chế độ, tiêu chuẩn, định mức được thay bằng các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất lượng “đầu ra”.
Do đó, nó đã khắc phục được những hạn chế của cơ chế kiểm soát chi theo “đầu vào” khi mà hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước còn thiếu, lạc hậu. Quản lý ngân sách theo đầu ra chú trọng đến kết quả trong việc thực hiện hơn là việc chi như thế nào để thực hiện.
Kiểm soát các khoản chi NSNN theo mức độ rủi ro, cần phân tích mức độ rủi ro các khoản chi NSNN. Khi đã xác định được mức độ rủi ro, cần có các cơ chế kiểm soát cho phù hợp với từng loại. Đối với các khoản chi NSNN rủi ro cao cần phải kiểm soát tất cả các khoản chi đó, đối với các khoản chi NSNN ít rủi ro thì cần kiểm soát chọn mẫu hoặc thanh toán trước kiểm soát sau.
Đối với tài liệu cơ sở của dự án: khi tạm ứng vốn xây lắp yêu cầu chủ đầu tư phải gửi đến KBNN biên bản bàn giao mặt bằng thi công xây dựng. Mở tài khoản kế toán áp dụng TABMIS, cần phải mã hóa tài khoản ghi chép trên chứng từ sao cho thuận lợi, vừa đơn giản dễ viết mà chủ đầu tư không phụ thuộc quá nhiều vào các loại mã hiệu do KBNN đặt ra.
Theo đó, KBNN cần hướng dẫn và thông báo thống nhất tài khoản chuẩn cho khách hàng giao dịch theo dạng: xxxx.x.xxxxxx (gồm 12 số, không kể dấu chấm) Gồm: 4 ký tự đầu là mã tài khoản tự nhiên, 1 ký tự tiếp theo mã cấp ngân sách (trường hợp tài khoản không theo dõi chi tiết mã cấp ngân sách để là 0), 7 ký tự còn lại là mã ĐVQHNS (mã dự án đối với chi đầu tư).
Khi chủ đầu tư mở tài khoản, KBNN chỉ thông báo cho khách hàng một tài khoản chính (là tài khoản chi đầu tư hoặc tài khoản chi sự nghiệp) dùng để ghi chép trên chứng từ rút vốn, khi phát sinh nghiệp vụ thanh toán (thanh toán, tạm ứng hoặc thu hồi tạm ứng) cán bộ kế toán KBNN hạch toán và ghi chép vào ô “dành cho KBNN ghi” đúng nghiệp vụ kinh tế phát sinh; đối với nguồn ứng trước cán bộ kiểm soát ghi ghi rõ nguồn vốn ứng trước cùng với niên độ kế hoạch, cán bộ kế toán nhận dạng nguồn vốn và ô tạm ứng hoặc thanh toán để ghi chép và hạch toán tài khoản. Sắp xếp lưu trữ hồ sơ chứng từ thanh toán, KBNN cần có văn bản hướng dẫn việc sắp xếp hồ sơ tài liệu trong lưu trữ, việc sắp xếp hồ sơ chứng từ theo nhóm hồ sơ pháp lý và nhóm chứng từ phát sinh (theo hạng mục, tiết mục và theo trình tự thời gian…).
Nhóm giải pháp 3: Các giải pháp hỗ trợ khác
Phối hợp chặt chẽ với các bên có liên quan, một dự án đầu tư nào cũng qua rất nhiều khâu quản lý, kiểm soát, qua KBNN được coi là một khâu lớn, trong đó lại có nhiều tác nghiệp nhỏ. Muốn có được sự thống nhất cao phải có rõ sự rõ ràng trong phân công nhiệm vụ và chặt chẽ, hợp lý trong phối hợp điều hành.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, việc thường xuyên kiểm tra, kiểm soát nội bộ cho phép kho bạc kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai phạm. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đó cũng là điều kiện tốt để cán bộ nâng cao chất lượng kiểm soát chi.
Ứng dụng công nghệ thông tin, là yêu cầu bức thiết theo chức năng nhiệm vụ của Kho bạc nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020. Vì vậy, KBNN cần sớm xây dựng chương trình quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn CTMTQG qua KBNN thống nhất trên toàn quốc đồng thời tích hợp được với TABMIS. Yêu cầu chương trình phải tổng hợp được số liệu từ TW đến tỉnh, thành phố và các quận, huyện, thị xã; kết xuất được số liệu bao gồm năm trước, năm kế hoạch theo đúng biểu mẫu quy định. Có như vậy mới thuận lợi trong công tác tổng hợp toàn quốc cũng như phục vụ kịp thời số liệu cho các Ban Chỉ đạo CTMTQG các cấp.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trẻ hóa cán bộ công chức có năng lực, trình độ chất lượng cao; cần phải tiêu chuẩn hoá cán bộ làm công tác kiểm soát chi. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính là: Nâng cao khả năng giao tiếp, cách ứng xử của cán bộ, công chức nhằm tiến tới xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chuyên nghiệp, hiện đại.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động kiểm soát chi NSNN, chất lượng hoạt động nghiệp vụ của KBNN thể hiện ở các tiêu chí giải ngân nhanh, kịp thời, không để tồn đọng hồ sơ, đúng chế độ, bảo đảm liên hoàn và thuận lợi cả ba khâu: Tiếp nhận hồ sơ, kiểm soát thanh toán đúng chế độ và thanh toán chuyển tiền nhanh, an toàn cho đơn vị thụ hưởng. Việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001: 2008 vào kiểm soát chi NSNN nó không chỉ thay đổi tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, nhân viên, hiệu quả công việc được nâng lên mà còn tạo sự tin cậy về tính chuyên nghiệp, an toàn cho chính khách hàng khi đến giao dịch với KBNN.