Khu vực tư nhân đối với việc nâng cao hiệu quả các dự án và tăng trưởng kinh tế thế giới


Các chính phủ trên thế giới đang xem xét lại cách tài trợ cho nhu cầu ngày càng tăng và kỳ vọng ngày càng cao của nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, những nước thường có nguồn vốn hạn chế để đáp ứng nhu cầu tăng cao về cơ sở hạ tầng thiết yếu.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Điều này dẫn đến việc tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc cung cấp các dự án cho nền kinh tế phục vụ cho các lợi ích công cộng và tư nhân. Tuy nhiên, khu vực tư nhân phải đối mặt các rủi ro khác nhau trong toàn bộ vòng đời của các dự án để đảm bảo thành công lâu dài.

Bài viết trình bày kinh nghiệm đóng góp của khu vực tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả các dự án và thúc đẩy kinh tế thế giới. Các khuyến nghị chính sách thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả các dự án và góp phần tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

1. Giới thiệu

Để đạt được tăng trưởng kinh tế cao và bền vững tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, dù ở quốc gia nào, khu vực tư nhân luôn là động lực tăng trưởng kinh tế. Vai trò thiết yếu của khu vực tư nhân trong tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển hiện đã được thiết lập rõ ràng: Khu vực tư nhân tạo ra số lượng lớn việc làm; Tài trợ vốn đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế; Đóng góp doanh thu của chính phủ thông qua thuế công ty, tiền thuê tài nguyên và thuế thu nhập đối với người lao động; Cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ thiết yếu như ngân hàng, viễn thông, y tế và giáo dục; Phát minh, thiết kế và sản xuất hầu hết các hàng hóa và dịch vụ mà người dân sử dụng và thúc đẩy nền kinh tế. Khu vực tư nhân là nhà sản xuất hàng xuất khẩu thống trị trong hầu hết các nền kinh tế.

Quy mô và sự đa dạng của khu vực tư nhân hoạt động trong một quốc gia ảnh hưởng mạnh mẽ đến dòng tài chính tổng thể vào nền kinh tế. Nguồn vốn tư nhân, từ các khoản đầu tư và kiều hối, đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua. Điều này đã dẫn đến việc khu vực tư nhân có ảnh hưởng gia tăng trong cách thức hình thành và phát triển các nền kinh tế.

Ảnh hưởng này bao gồm các loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, vị trí địa lý nơi sản xuất đang diễn ra và cơ sở hạ tầng đang được xây dựng để hỗ trợ sản xuất này. Đầu tư tư nhân cao hơn có tác động đến các nền kinh tế phát triển nhanh hơn.

Chính sách của các chính phủ có thể khuyến khích hoặc không khuyến khích dòng đầu tư tư nhân vào nền kinh tế. Trong một số trường hợp, việc thiết lập chính sách kém có thể làm trầm trọng thêm tình trạng đầu tư dưới mức tiềm năng của khu vực tư nhân hoặc làm suy yếu năng lực cạnh tranh và lấn át đầu tư của khu vực tư nhân. Điều này có thể kìm hãm hoạt động kinh doanh tạo việc làm và phát triển thị trường, hạn chế tiềm năng tăng trưởng và giảm nghèo trong nền kinh tế.

Xuất phát từ nghiên cứu và tình hình thực tế đã cho thấy tầm quan trọng của mối liên hệ giữa khu vực tư nhân và tình hình tăng tưởng kinh tế của quốc gia. Nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về những đóng góp của khu vực tư nhân đến hiệu quả các dự án và tăng trưởng kinh tế thế giới và đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

2. Các nghiên cứu vai trò của khu vực tư nhân đối với việc nâng cao hiệu quả các dự án của các nước trên thế giới

Khu vực tư nhân tham gia đóng góp hoạt động phát triển kinh tế của các quốc gia theo ba hình thức chính: Chính sách của nhà nước cho phép các doanh nghiệp khu vực tư nhân tham gia là một trong các thành viên của các dự án của nhà nước để xác định bản chất và mức độ đầu tư cần thiết của khu vực tư nhân vào cộng đồng; Các dự án được khởi xướng và kiểm soát hoàn toàn bởi các tổ chức khu vực tư nhân mặc dù có hoặc không có yêu cầu của chính phủ; Sự kết hợp của các phương thức này, trong đó chính phủ trao quyền tự chủ cho các tổ chức khu vực tư nhân để xác định bản chất và mức độ tham gia của họ (McEwan và cộng sự, 2017).

Tăng trưởng và phát triển kinh tế về cơ bản phụ thuộc vào khả năng đầu tư và sử dụng hiệu quả và năng suất các nguồn lực của một quốc gia. Trên thực tế, không thể có tăng trưởng nếu không đầu tư đủ số lượng và chất lượng. Do đó, Bayraktar (2003) lưu ý rằng đầu tư là kết quả và nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế.

Vai trò của khu vực tư nhân là quan trọng trong cả đóng góp vào số lượng tổng đầu tư trong nước và khả năng phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Đầu tư của khu vực tư nhân là động cơ tạo ra việc làm và thu nhập, cung cấp cơ sở hạ tầng cũng như các dịch vụ xã hội. Các tổ chức quốc tế đều thừa nhận vai trò của khu vực tư nhân trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển.

Đáng chú ý, Ủy ban Châu Âu (EU) (2014) cho rằng khu vực tư nhân có tiềm năng tạo ra tăng trưởng đồng đều và bền vững ở các nước đang phát triển. Các Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) (2011) đều khẳng định rằng khu vực tư nhân là một thành phần quan trọng trong việc giải quyết các thách thức phát triển của các nước đang phát triển thông qua những đóng góp của họ trong nhiều lĩnh vực, bao gồm tăng trưởng, việc làm, giảm nghèo, cung cấp dịch vụ, an ninh lương thực, khí hậu. giảm thiểu thay đổi, bền vững môi trường và đóng góp vào thuế.

Điều này có nghĩa là sự hiện diện của khu vực tư nhân ít nhất có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Việc phân bổ vốn hiệu quả trong một nền kinh tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lưu ý rằng ngày càng có nhiều công nhận về tác động tích cực của các dự án khu vực tư nhân tham gia.

Khu vực tư nhân luôn là đối tượng, đối tác và tác nhân của sự phát triển quốc tế. Quy mô của các dự án có sự đóng góp từ các doanh nghiệp một người đến các tập đoàn xuyên quốc gia rộng lớn. Các quy mô, mạng lưới, hình thức và chức năng khác nhau của khu vực tư nhân này được bao hàm xuyên suốt các nền kinh tế, tạo nên vai trò và mối quan hệ của chúng. (O'Laughlin, 2008).

Vai trò của khu vực tư nhân đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ khi có các nguồn vốn tài trợ, cho vay được hỗ trợ để khai thác các nguồn lực của khu vực tư nhân. Cung cấp nguồn tài chính mới và mở rộng cho các quan hệ đối tác của khu vực tư nhân, các chương trình ưu tiên và thể chế mới, nhân sự được cấu trúc trong khu vực tư nhân (Mawdsley, 2015).

Các công ty tư nhân có thể tham gia vào việc phát triển kinh tế một cách độc lập hoặc trong quan hệ đối tác với các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan tài trợ trong nước hoặc các quốc gia khác. Khi nhiều cơ quan phát triển quốc gia thu hút thêm nhiều đối tác trong khu vực tư nhân, các tập đoàn có sự kết hợp giữa tư nhân và nhà nước, trong đó tư nhân vẫn chủ đạo ngày càng phong phú và đa dạng để thúc đẩy các hình thức phát triển kinh tế khác nhau. Sự phát triển cộng đồng do khu vực tư nhân dẫn dắt trong các lĩnh vực cụ thể thường ở các khu vực cận biên về mặt địa lý, sự hiện diện và năng lực của nhà nước còn hạn chế (DFID, 2014).

Các nghiên cứu hiện tại cung cấp những hiểu biết cần thiết về đóng góp của khu vực tư nhân đối với hiệu quả của các dự án và tăng trưởng của nền kinh tế. Bài báo này nghiên cứu mức độ đóng góp của khu vực tư nhân đối với sự thành công các dự án các quốc gia trên thế giới và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.  

3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Nhiều yếu tố dẫn đến việc không thành công của dự án liên quan đến các nhà đầu tư tư nhân, chính quyền và cơ quan quản lý liên quan đến dự án đó. Trong một số trường hợp, việc chính phủ sẵn sàng chấp nhận rủi ro hoặc luôn có chính sách bảo trợ cho các dự án có thể khiến nhà đầu tư ít xem xét các dự báo nhu cầu hơn và do đó có lẽ làm tăng khả năng dự án không đạt so với dự kiến.

Các cú sốc kinh tế vĩ mô có thể làm tăng khó khăn trong việc thực hiện cải cách và đẩy nhanh tốc độ thất bại của các dự án. Những cú sốc này đã dẫn đến sự gia tăng chi phí thực tế, làm giảm lợi nhuận của các dự án nhanh chóng. Và bởi vì nhiều dự án được tài trợ bởi các khoản vay ngoại tệ, các cú sốc đã dẫn đến chi phí dịch vụ nợ tính theo nội tệ cao hơn.

Nhiều dự án bị thất bại vì không thu hút được đủ khách hàng hoặc do chính phủ quyết định thay đổi cấu trúc thị trường. Một số dự án đã trúng thầu thông qua giá thầu cao cho phí chuyển nhượng hoặc phí giấy phép nhưng khi đi vào hoạt động đã không thể cung cấp doanh thu đủ để trả phí và đáp ứng các nghĩa vụ đầu tư. Một số trường hợp các dự án không có tính cạnh tranh, sự thiếu minh bạch trong tài chính và có dấu hiệu tham nhũng góp phần làm cho dự án không thành công.

Nỗ lực của các chính phủ để tư nhân hóa lại một số dự án và các dự án tư nhân mới ở các quốc gia cho thấy rằng nhiều chính phủ vẫn coi khu vực công kém hiệu quả hơn khu vực tư nhân trong việc đầu tư các dự án. Tuy nhiên, tình trạng khó khăn khi thực hiện các dự án phải đối mặt nhiều nhất ở các nước đang phát triển là áp lực tài chính. Và cuộc khủng hoảng kinh tế ở tầm vĩ mô đã tạo nên những căng thẳng tài chính lớn cho các dự án tư nhân.

Đảm bảo tính minh bạch trong việc tài trợ vốn và thực hiện quy định đấu thầu các dự án một cách công bằng sẽ giúp giảm bớt sự thất bại của các dự án tư nhân. Khó khăn mà các doanh nghiệp tư nhân gặp phải trong việc nhận được nguồn tài chính một phần là do các yếu tố trong hệ thống tài chính.

Các ngân hàng vẫn không coi khoản cho vay xấu đối với doanh nghiệp nhà nước là nghiêm trọng như các khoản cho vay xấu đối với doanh nghiệp tư nhân. Khi một doanh nghiệp đi vay thuộc sở hữu nhà nước không thực hiện được khoản vay, chính phủ gần như chắc chắn sẽ bảo lãnh khoản vay đó. Những doanh nghiệp tư nhân đi vay không được hưởng lợi từ những kỳ vọng giống như thế. Cho đến khi vẫn còn tồn tại sự bất cân xứng về rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt khi cho vay các công ty có các loại hình sở hữu khác nhau chưa được loại bỏ, các ngân hàng sẽ phân biệt đối xử với các doanh nghiệp khu vực tư nhân. Do đó, các ngân hàng cần có thêm các chính sách ưu đãi từ nhà nước để cho vay các doanh nghiệp tư nhân.

Các vấn đề về thông tin phổ biến trên thị trường tài chính, thường gặp tình trạng thông tin bất cân xứng đối với các công ty tư nhân. Việc các doanh nghiệp tư nhân không tiếp nhận các thông tin chính xác đã ảnh hưởng rất lớn đối với các doanh nghiệp tư nhân khi đưa các quyết định và thực hiện các dự án.

Các dự án của các doanh nghiệp tư nhân đã phát triển trong một môi trường kinh tế thiếu thân thiện. Vị trí độc quyền và được hưởng nhiều ưu đãi của các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân đã phát triển với chiều hướng mờ nhạt và chỉ mới được thừa nhận vị trí, vai trò đóng góp đối với nền kinh tế thời gian gần đây đã phần nào kìm hãm sự phát triển và thành công của các dự án tư nhân.

Hiện tại, sự tương tác giữa các tổ chức tài chính và các công ty tư nhân không sử dụng các hệ thống tài chính và kế toán minh bạch. Bằng cách tránh các hệ thống kế toán chính thức hoặc thiết lập riêng một số bộ sổ sách, các công ty tư nhân có thể khiến việc kiểm toán các dự án gặp khó khăn và thiếu cơ sở. Các ngân hàng sẽ từ chối cấp tín dụng khi các báo cáo tài chính không thể tin cậy được. Những sửa đổi gần đây đối với luật kế toán, trong đó quy định rằng mỗi đơn vị kinh doanh chỉ được có một bộ sổ sách kế toán, minh chứng cho mức độ nghiêm trọng của vấn đề này.

Gần đây, nhiều ngân hàng trung ương bắt buộc các doanh nghiệp vay vốn phải đăng ký vào cơ sở dữ liệu quốc gia. Điều này sẽ làm cho cơ sở dữ liệu trung tâm trở nên toàn diện hơn và ngăn các công ty có hồ sơ kém nhận được các khoản vay hoặc sử dụng cùng một tài sản thế chấp cho nhiều khoản vay.

Cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài chính bên ngoài của các doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực phối hợp để cải thiện mức độ tín nhiệm của họ bằng cách tăng cường tính minh bạch và làm rõ quyền sở hữu; về phía chính phủ thiết lập và duy trì một sân chơi bình đẳng và tạo động lực cho vay, đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân.

Tăng cường khuyến khích các ngân hàng cho vay doanh nghiệp tư nhân. Một bước quan trọng sẽ là tăng cường khuyến khích lợi nhuận thông qua sở hữu tư nhân và cạnh tranh. Chính phủ nên cho phép các tổ chức tài chính tư nhân mới trong nước gia nhập, đặc biệt là theo quan điểm của khả năng trở thành thành viên WTO, điều này sẽ mở ra cơ hội gia nhập cho các tổ chức tài chính nước ngoài. Để giảm bớt những lo ngại thì các quy định, các yêu cầu đầu vào và bảo mật chặt chẽ hơn có thể được áp dụng cho các tổ chức tài chính tư nhân mới trong giai đoạn đầu.

Cho phép ngân hàng tính phí giao dịch. Các ngân hàng nhận thấy rằng việc cho vay đối với các công ty tư nhân không rõ ràng về mặt thông tin so với các doanh nghiệp nhà nước mang lại chi phí giao dịch đơn vị cao hơn. Nếu các ngân hàng không có khả năng trang trải các chi phí này, họ có thể sẽ phân biệt đối xử với các doanh nghiệp tư nhân. Do đó, phí giao dịch sẽ khuyến khích các ngân hàng xem xét để đưa nhiều đề xuất hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển theo hướng thúc đẩy tính minh bạch hơn và các tiêu chuẩn kế toán tốt hơn.

Phát triển các giải pháp thay thế cho vay ngân hàng, chẳng hạn như cho thuê và bao thanh toán. Cho thuê và bao thanh toán chưa phát triển ở Việt Nam nhưng chúng là những cách hữu ích để tài trợ thương mại cho các dự án của khu vực tư nhân bên cạnh hình thức cho vay vốn thông thường.

Tuy nhiên, việc phát triển cho thuê tài chính gặp phải những trở ngại ở Việt Nam như: nợ tiền thuê từ lâu đã trở thành một vấn đề nan giải; chuẩn mực kế toán không rõ ràng; môi trường pháp lý không cung cấp đối xử bình đẳng với các nguồn tài trợ đầu tư vốn khác; và kinh phí là mối quan tâm thường xuyên.

Vấn đề thanh khoản và nợ đọng vốn là điều phổ biến ở các dự án tư nhân ở Việt Nam. Bao thanh toán, việc bán các khoản phải thu của một công ty cho một tổ chức tài chính được gọi là một tổ chức tài chính chịu trách nhiệm thu các khoản của công ty là một cách để cải thiện tính thanh khoản của công ty bằng cách thay thế số dư các khoản nợ ghi sổ.

Tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường cổ phần tư nhân. Thị trường cổ phần tư nhân ở Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển phôi thai. Trên thực tế, các quỹ đầu tư nước ngoài dường như là một nguồn vốn quan trọng hơn nhiều cho các công ty tư nhân ở Việt Nam so với các quỹ trong nước. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường cổ phần tư nhân đối với lĩnh vực công nghệ cao, chính phủ đã tăng cường nỗ lực để kích thích sự phát triển của khu vực này.

Các công cụ pháp lý nhất định phải có trước khi quỹ cổ phần tư nhân có thể phát triển. Những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến tổ chức hợp pháp của các quỹ, việc sử dụng người quản lý quỹ, sự cần thiết của người được ủy thác để bảo vệ nhà đầu tư khỏi các hành động bất lợi của người quản lý quỹ và xử lý thuế để tránh đánh thuế hai lần.

Sự phát triển của thị trường cổ phần tư nhân cũng phụ thuộc vào khả năng của các nhà đầu tư trong việc sử dụng nhiều công cụ tài chính khác nhau để cơ cấu các khoản đầu tư. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc thiếu các quy định cho việc phát hành các loại cổ phiếu khác nhau và chứng khoán bán vốn dường như đã phủ nhận tính linh hoạt mà họ cần trong việc thu xếp tài chính của các các doanh nghiệp tư nhân.

4. Kết luận

Khu vực tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế. Sau sự thất bại của các tập đoàn kinh tế mang tính nhà nước thì khu vực tư nhân ngày càng được nhìn nhận đóng góp cho sự phát triển cộng đồng. Khu vực tư nhân có tính sáng tạo đổi mới, bộ máy tinh gọn, không quan liêu, hoạt động hiệu quả. Thúc đẩy đầu tư vào khu vực tư nhân để mang lại sự phát triển, nhưng các tập đoàn phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp và đôi khi khó giải quyết về mặt cơ chế và chính sách.

Trong đó, thường có sự thiếu liên kết giữa những định hướng phát triển ​​của khu vực tư nhân với các chính sách và ưu tiên của nhà nước. Vì vậy, nhà nước đã tích cực tạo điều kiện đầu tư thuận lợi và đảm bảo sự hòa nhập của khu vực tư nhân với lợi ích cộng đồng địa phương. Trong một số trường hợp, các công ty tư nhân có thể tiếp quản vai trò đầu tư chủ lực khi chính quyền cấp địa phương đang thiếu nguồn lực.

Bối cảnh của sự phát triển quốc tế đang chuyển sang hướng khu vực tư nhân làm động lực phát triển. Trong nhiều trường hợp, khu vực nhà nước có thể vẫn là một hình thức phát triển có chủ đích để đối phó với sự hỗn loạn về xã hội, kinh tế và môi trường gây ra bởi sự phát triển nội tại của các tập đoàn ở các cộng đồng nghèo.

Do đó, các cơ chế chính sách và tài chính mới đang được tạo ra để thu hút hoặc tạo điều kiện cho khu vực tư nhân lãnh đạo khó có thể hiệu quả trong trường hợp này. Mối quan tâm cốt lõi của các tập đoàn khu vực tư nhân là tạo ra lợi nhuận cần phải được dung hòa trong lợi ích kinh tế - xã hội chung. Trách nhiệm của các nhà lãnh đạo khu vực tư nhân thường được làm rõ với người lao động, cổ đông hơn là trách nhiệm với cộng đồng, địa phương. Do đó, vẫn cần có những biện pháp, chính sách nâng cao mức độ đóng góp, quan tâm của khu vực tư nhân đến lợi ích kinh tế - xã hội chung.

Tài liệu tham khảo:

  1. Bayraktar, B. (2003). The role of private sector investment in the economic performance of IOC member countries. Journal of Economic Cooperation, 24(1), 63 -110. Retrieved from http://www.sesric.org/jecd/jecd_articles/ART02100103-2.pdf.
  2. Cheryl McEwan, Emma Mawdsley, Glenn Banks, Regina Scheyvens. (2017). Enrolling the Private Sector in Community Development: Magic Bullet or Sleight of Hand? Institute of Social Studies, 48(1).
  3. European Commission. (2014). A stronger role of the private sector in achieving inclusive and sustainable growth in developing countries. Communication from the commission to the European Parliament, the council, the European economic and social committee and the committee of the region. Brussels, 13.5.2014 COM (2014) 263 final. Retrieved on July 14, 2015 from http://ec.europa.eu/ transparency/regdoc/rep/1/2014/EN/1-2014-263-EN-F1- 1.Pdf
  4. International Finance Corporations. (2011). Chapter 1: Role of the private sector in development. International Finance Institutions and Development through the Private Sector. A joint report of 31 multilateral and bilateral development finance institutions. Retrieved on July 14, 2015 from http://www.edfi.be/component/ downloads/downloads/54.html.
  5. Mawdsley, E. (2015). DFID, the Private Sector, and the Re‐centring of an Economic Growth Agenda in International Development. Global Society, 29(339), 58.
  6. O'Laughlin, B. (2008). Governing Capital? Corporate Social Responsibility and the Limits of Regulation. Development and Change, 39(6), 945 - 57.

(*) ThS. Diệp Tử Nguyên - ThS. Phạm Thị Ngọc Dung,Trường Đại học Tài chính – Marketing/tapchicongthuong.vn