Khuyến khích xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công: Kết quả và đề xuất, khuyến nghị
Có thể thấy, các chính sách ưu đãi khuyến khích xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công quy định tại Nghị định số 69/2008/NĐ-CP và Nghị định số 59/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã tương đối đầy đủ và phù hợp với thực tiễn.
Kết quả triển khai hai nghị định này cho thấy, đã bước đầu thu hút được các nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong xã hội tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công... Tuy nhiên, việc xã hội hóa cung ứng dịch vụ sự nghiệp công trong những năm qua cũng gặp phải không ít khó khăn, hạn chế cần có giải pháp khắc phục cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Đặt vấn đề
Chủ trương xã hội hóa (XHH) dịch vụ sự nghiệp công (DVSNC) ở nước ta bắt đầu từ nửa cuối những năm 90 của thế kỷ trước. Từ Đại hội VII (năm 1991) đến nay, chủ trương XHH các lĩnh vực dịch vụ công từng bước được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội VII xác định: "Cần huy động mọi khả năng của Nhà nước và của nhân dân, trung ương và địa phương để cùng nhau giải quyết các vấn đề của chính sách xã hội".
Tiếp đó, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) tiếp tục chỉ rõ: "Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần XHH. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp (DN), các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết tốt những vấn đề xã hội"; "Thực hiện phương châm XHH các hoạt động thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình, giáo dục và các mặt xã hội khác, hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của nhân dân".
Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Văn kiện Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng và tại một số Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng. Văn kiện Đại hội XII đã nêu cụ thể về định hướng đẩy mạnh XHH DVSNC như sau: “…XHH lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này”; “Đẩy mạnh XHH, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin”…
Hiện thực hóa chủ trương của Đảng về đẩy mạnh XHH DVSNC, ngày 30/5/2008 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. Tiếp đó, để phù hợp với thực tiễn, ngày 16/6/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định quy định về danh mục tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện XHH (Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10/10/2008; Quyết định số 693/QĐ-TTg ngày 3/5/2013 và Quyết định số 1470/QĐ-TTg ngày 22/7/2016 sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Danh mục chi tiết ban hành kèm theo Quyết định số 1466/QĐ-TTg).
Chuyển biến tích cực về xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công
Đánh giá thực tiễn triển khai Nghị định số 69/2008/NĐ-CP và Nghị định 59/2014/NĐ-CP cho thấy, đã bước đầu thu hút các nguồn lực trong xã hội tham gia phát triển DVSNC, qua đó góp phần thay đổi nhận thức của xã hội trong việc sử dụng các DVSNC do đơn vị sự nghiệp ngoài công lập (NCL) cung ứng DVSNC. Các dự án XHH hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần, giải quyết việc làm cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội, giảm bớt gánh nặng đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN).
Các địa phương đã quan tâm đến việc ban hành văn bản hướng dẫn khuyến khích thực hiện XHH các lĩnh vực DVSNC trên địa bàn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương.
Để khuyến khích và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở XHH, cá biệt một số địa phương đã ban hành các chính sách ưu đãi đặc thù như: UBND TP. Hồ Chí Minh đã triển khai thực hiện Chương trình kích cầu đầu tư của Thành phố. Hay tại Phú Thọ, đã thực hiện hỗ trợ từ ngân sách Tỉnh với 30% lãi suất sau đầu tư trong thời hạn không quá 3 năm đối với các cơ sở giáo dục bán công chuyển sang loại hình NCL mà chưa có cơ sở vật chất, hoặc được ngân sách Tỉnh hỗ trợ kinh phí để đầu tư xây dựng một nhà lớp học (tương đương dự toán nhà lớp học theo mẫu thiết kế của Tỉnh), tổng số vốn ngân sách địa phương đã hỗ trợ đầu tư cho các cơ sở NCL là 11,5 tỷ đồng, trong đó cơ sở giáo dục là 8,2 tỷ đồng, cơ sở y tế là 3,3 tỷ đồng…
Thực hiện các chính sách ưu đãi của Nhà nước
Để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung cấp các DVSNC (giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường...), Nghị định số 69/2008/NĐ-CP và Nghị định số 59/2014/NĐ-CP đã quy định các chính sách ưu đãi về giao đất, cho thuê đất, về chính sách thuế, về tín dụng đối với các cơ sở XHH. Kết quả cụ thể như sau:
- Đối với chính sách ưu đãi về đất đai: Báo cáo của các địa phương cho thấy, đến nay, các địa phương đã bố trí và giao 3.080 ha đất cho các nhà đầu tư có dự án đầu tư trong lĩnh vực XHH được cấp có thẩm quyền phê duyệt triển khai thực hiện. Một số địa phương (Hà Nội, Thừa Thiên Huế, Tuyên Quang, Phú Thọ) đã thực hiện miễn, giảm tiền thuê đất hoặc tiền sử dụng đất cho các dự án XHH, với tổng số kinh phí khoảng 1.296 tỷ đồng.
- Đối với chính sách ưu đãi về thuế: Thực tiễn triển khai cho thấy, chính sách ưu đãi về thuế là thực sự cần thiết, nhằm thúc đẩy XHH DVSNC, thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong xã hội tham gia phát triển sự nghiệp dịch vụ công. Số liệu thống kê của Tổng cục Thuế cho thấy, tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp đã thực hiện ưu đãi miễn, giảm cho các dự án XHH giai đoạn 2008-2019 là khoảng 926 tỷ đồng.
- Chính sách ưu đãi về tín dụng: Đến ngày 30/6/2020, dư nợ cho vay XHH trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy nghề, văn hóa thể thao du lịch là 1.520 tỷ đồng (gồm 35 dự án).
Thu hút các nguồn lực tham gia cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
- Mở rộng mạng lưới các cơ sở cung ứng DVSNC NCL: Với việc Chính phủ đã hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách khuyến khích XHH, hệ thống các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp NCL đã từng bước phát triển hơn so với trước, nhất là ở các thành phố lớn, khu đô thị, các địa phương có điều kiện kinh tế phát triển.
Ví dụ, trong lĩnh vực y tế, cả nước đã có trên 30.000 cơ sở hành nghề tư nhân, 88 bệnh viện tư nhân, 300 phòng khám đa khoa, 87 nhà hộ sinh... Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, trong năm học 2018-2019 số trường NCL chiếm 18% trong tổng số các trường đại học, cao đẳng; Ở bậc mầm non và phổ thông, tỷ lệ trường ngoài công lập chiếm 15% (mầm non); 0,7% (tiểu học); 0,34% (trung học cơ sở); 16% (trung học phổ thông).
Theo báo cáo của các địa phương, đến nay đã có khoảng trên 8.000 dự án đầu tư trong lĩnh vực xã hội hóa được cấp giấy phép đầu tư/đi vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư đăng ký thực hiện khoảng trên 132.000 tỷ đồng. Trong đó, các dự án đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, chiếm 40% với số đăng ký là khoảng trên 53.000 tỷ đồng; các dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế, chiếm 28% với tổng số vốn đăng ký là khoảng 37.000 tỷ đồng; còn lại là các dự án trong lĩnh vực môi trường, văn hóa, thể thao.
Nhìn chung, những chính sách khuyến khích XHH đã thu hút được các thành phần kinh tế cùng với NSNN tham gia đầu tư vào các lĩnh vực cung cấp DVSNC.
Đồng thời, mở rộng việc áp dụng các kỹ năng quản lý, quản trị tiên tiến của các thành phần kinh tế trong hoạt động cung cấp DVSNC, góp phần tăng nhanh về quy mô, số lượng, đa dạng hóa các loại hình và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ cho xã hội.
Theo báo cáo của các địa phương, đến nay đã có khoảng trên 8.000 dự án đầu tư trong lĩnh vực XHH được cấp giấy phép đầu tư/đi vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư đăng ký thực hiện khoảng trên 132.000 tỷ đồng.
Trong đó, các dự án đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, chiếm 40% với số đăng ký là khoảng trên 53.000 tỷ đồng; các dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế, chiếm 28% với tổng số vốn đăng ký là khoảng 37.000 tỷ đồng; còn lại là các dự án trong lĩnh vực môi trường, văn hóa, thể thao.
- Khuyến khích các cơ sở sự nghiệp công lập (chủ yếu trong lĩnh vực y tế) chủ động, phát huy sáng tạo trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư của xã hội thông qua hoạt động huy động vốn, liên doanh, liên kết. Theo báo cáo của Bộ Y tế, các cơ sở y tế công lập còn triển khai các dự án vay vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, qua đó giúp các bệnh viện mở rộng cơ sở vật chất, có thêm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động chuyên môn trong điều kiện nguồn vốn đầu tư của bệnh viện còn khó khăn. Đến nay, đã có 28 dự án thuộc các bệnh viện tỉnh và 9 bệnh viện trung ương ký hợp đồng vay vốn ngân hàng để đầu tư cơ sở hạ tầng và mua sắm, bổ sung trang thiết bị, với tổng số vốn vay gần 2.000 tỷ đồng.
Những vướng mắc, bất cập
Bên cạnh những kết quả đạt được ở trên, vấn đề XHH trong cung ứng DVSNC cũng gặp phải những tồn tại, hạn chế như sau:
- Về tư tưởng, nhận thức: Công tác phổ biến, tuyên truyền về việc áp dụng các chính sách khuyến khích XHH còn hạn chế. Thực tiễn triển khai tại các địa phương cho thấy, tại các địa phương hiện đang có nhiều cách hiểu khác nhau về xác định cơ sở XHH (khái niệm về XHH), cách thức áp dụng các tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của cơ sở XHH, dẫn đến việc thực hiện chính sách khuyến khích XHH gặp nhiều khó khăn và áp dụng không thống nhất giữa các địa phương. Công tác báo cáo về tình hình triển khai và kết quả thực hiện còn hạn chế: nhiều bộ, ngành địa phương báo cáo chậm so với thời gian quy định, số liệu báo cáo chưa đầy đủ.
- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn chưa theo kịp với tình hình phát triển thực tiễn. Thực tế triển khai cho thấy, những khó khăn, vướng mắc trong triển khai chủ trương, chính sách khuyến khích XHH trong cung ứng DVSNC của các cơ sở thực hiện XHH chủ yếu liên quan đến vấn đề đất đai. Mặc dù, các chính sách về hỗ trợ nguồn lực (chính sách hỗ trợ đền bù, giải phóng mặt bằng, giao đất “sạch” cho chủ đầu tư) cho các cơ sở thực hiện XHH về cơ bản đã được thể chế hóa đầy đủ tại Nghị định số 59/2014/NĐ-CP.
Tuy nhiên, các chính sách này chưa được thực hiện đầy đủ tại các địa phương, trong khi đó, một số nhà đầu tư gặp vướng mắc về thủ tục xin giao đất; hoặc khi được giao đất lại gặp nhiều khó khăn về giải phóng mặt bằng, nên sau nhiều năm vẫn chưa đủ khả năng xây dựng được cơ sở vật chất hoàn chỉnh để đi vào hoạt động. Nguyên nhân của những hạn chế này là do: (i) Thiếu quy hoạch sử dụng đất đai cho mục đích XHH; (ii) Địa phương chưa bố trí quỹ đất công; (iii) Nguồn lực kinh tế của địa phương còn hạn chế, ngân sách địa phương phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ của ngân sách trung ương.
- Về mức độ phổ cập XHH trong các lĩnh vực DVSNC là chưa đồng đều, thường chỉ tập trung ở một số lĩnh vực, loại hình dễ thu lợi nhuận và tập trung ở những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Các chính sách khuyến khích XHH chưa phát huy nhiều tác dụng tại các địa bàn khó khăn, do yếu tố lợi nhuận của các doanh nghiệp (DN) tham gia đầu tư.
Thêm giải pháp khuyến khích xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ công
Về quan điểm
Mặc dù, chủ trương XHH đối với một số hoạt động cung ứng DVSNC trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường đã được thể chế hoá bằng nhiều nghị quyết, nghị định, chính sách cụ thể của Chính phủ nhưng trong xã hội vẫn còn tồn tại những nhận thức chưa đầy đủ về XHH.
Để XHH trở thành một giải pháp cơ bản thúc đẩy việc mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ công, trước hết cần thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về XHH. Cần xác định XHH các DVSNC là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội từng bước nâng cao mức hưởng thụ và sự phát triển về thể chất và tinh thần của nhân dân.
Nhà nước không nên thực hiện chuyển giao toàn bộ việc cung cấp dịch vụ công cho tư nhân đảm nhiệm, mà đó là sự huy động sự tham gia của tư nhân vào cung cấp dịch vụ công dưới sự giám sát và quản lý của Nhà nước. Đồng thời, Nhà nước huy động thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các hoạt động này; có chính sách thu hút mọi nguồn lực của xã hội, khuyến khích các tổ chức cá nhân, DN tham gia phát triển các DVSNC trên cơ sở mở rộng các nguồn đầu tư khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực trong xã hội; phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội.
Một số giải pháp
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện XHH trong cung ứng dịch vụ công, thời gian tới cần triển khai các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác truyên truyền về XHH nhằm nâng cao nhận thức của xã hội, làm rõ khái niệm và đối tượng được hưởng chính sách XHH. Áp dụng các biện pháp quản trị, quản lý tiên tiến của các thành phần kinh tế đối với các đơn vị cung ứng DVSNC, đáp ứng nhu cầu của xã hội về số lượng và chất lượng dưới sự quản lý của Nhà nước.
Hai là, hoàn thiện khung chính sách về khuyến khích XHH.
Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập quy định: Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách tạo điều kiện đẩy mạnh cung ứng DVSNC theo cơ chế thị trường và thúc đẩy XHH trong việc cung cấp các DVSNC... Có chính sách khuyến khích ưu đãi về đất đai, thuế, phí, tín dụng... tạo điều kiện hỗ trợ cho các đơn vị ngoài công lập, nhà đầu tư tham gia đầu tư, nâng cao chất lượng DVSNC...
Để đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, thời gian tới, cần thiết ban hành Nghị định mới quy định về chính sách khuyến khích XHH trong cung ứng DVSNC (thay thế Nghị định số 69/2008/NĐ-CP và Nghị định số 59/2014/NĐ-CP), nhằm khắc phục những tồn tại hiện nay.
Ba là, các bộ quản lý ngành, lĩnh vực XHH và các địa phương cần tập trung triển khai các nội dung sau:
- Tăng cường trách nhiệm chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về XHH các hoạt động DVSNC.
- Rà soát các lĩnh vực XHH (đặc biệt là lĩnh vực giáo dục, y tế và môi trường) để kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện danh mục các tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở XHH phù hợp với từng đối tượng, từng vùng miền, địa phương và thực tế phát sinh để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
- Rà soát, sửa đổi, đơn giản hoá các thủ tục hành chính liên quan đến việc thành lập, cấp đất, cho vay vốn nhằm thúc đẩy XHH, tạo điều kiện khuyến khích thành lập mới các đơn vị cung cấp DVSNC NCL.
- Hình thành hoặc kiện toàn, nâng cao vai trò của các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập về chất lượng DVSNC theo ngành, lĩnh vực với sự tham gia của Nhà nước, các nhà chuyên môn và các đối tượng thụ hưởng dịch vụ.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện của các đơn vị cung ứng DVSNC (bao gồm cả tình hình thực hiện XHH), đảm bảo chất lượng hoạt động dịch vụ sự nghiệp; kịp thời xử lý các vướng mắc và cập nhật, bổ sung các chính sách chế độ cho phù hợp với thực tiễn.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập;
2. Bộ Tài chính (2017), Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công, Đề tài cấp Bộ;
3. Bộ Tài chính (2018), Báo cáo Chính phủ về kết quả tình hình thực hiện chính sách, khuyến khích xã hội hóa theo quy định tại Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 40/5/2006 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;
4. Nguyễn Trường Giang (2011), Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và định hướng 2020, Đề tài cấp Bộ