Kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng

Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 11/2020

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu chính nhằm đánh giá thực trạng công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách qua Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Thông qua kết quả phân tích, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách qua Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng trong thời gian tới.

Giới thiệu

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) từ ngân sách nhà nước (NSNN) là nguồn tài chính hết sức quan trọng của một quốc gia đối với phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, cũng như từng địa phương. Nguồn vốn này không những tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, mà còn định hướng cho việc thực hiện những vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hàng năm, Nhà nước dành khoảng 25% trong tổng chi NSNN cho đầu tư phát triển bao gồm: Vốn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong đó, tỷ lệ vốn ngân sách trung ương chiếm khoảng 15%-18% trong tổng số vốn NSNN dành cho đầu tư XDCB.

Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, công tác kiểm soát chi cũng phát sinh một số hạn chế như: khâu quyết định cấp vốn, sử dụng vốn đến việc thanh toán, quyết toán, tình trạng chồng chéo giữa các văn bản hướng dẫn… Đây cũng là vấn đề đặt ra tại Kho bạc Nhà nước Mỹ Xuyên tỉnh Sóc Trăng. Để khắc phục những hạn chế này, cần có giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn NSNN qua Kho bạc Nhà nước (KBNN) huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

Kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng   - Ảnh 1

Các nghiên cứu liên quan

Nghiên cứu của Đinh Thị Lan Doanh (2018) “Hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN tại huyện Minh Hòa, tỉnh Quảng Bình” (Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Huế) đã sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để nghiên cứu về vấn đề này. Nghiên cứu này đã hệ thống hóa được vấn đề cơ bản nhất về quản lý chi thường xuyên NSNN cấp huyện; đánh giá được thực trạng, chỉ ra được những tồn tại và nguyên nhân dẫn đến sự bất hợp lý trong quá trình thực hiện quản lý chi thường xuyên NSNN tại huyện Minh Hòa, tỉnh Quảng Bình. Từ đó, tác giả đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi tại huyện. Mặc dù vậy, nghiên cứu này cũng chỉ nêu ra được những điểm yếu trong công tác tổ chức thực hiện chuyên môn, công tác phối hợp thanh tra kiểm toán.

Nguyễn Hoàng Sơn (2017) với đề tài “Quản lý chi thường xuyên NSNN huyện Đăk Hà, tỉnh KonTum” (Luận văn Thạc sỹ Quản lý Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng) đã sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp thống kê, so sánh. Nghiên cứu này đã hệ thống hóa được vấn đề cơ bản nhất về quản lý chi thường xuyên NSNN tại huyện Đăk Hà, đánh giá được thực trạng, chỉ ra được những tồn tại và nguyên nhân dẫn đến sự bất hợp lý trong quá trình thực hiện quản lý chi thường xuyên NSNN tại huyện Đăk Hà, tỉnh KomTum. Từ đó đề ra những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện quản lý chi thường xuyên NSNN tại huyện.

Nghiên cứu của Trần Thị Thúy (2015) với đề tài “Quản lý chi thường xuyên ngân sách tại quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội” (Luận văn Thạc sỹ Quản lý Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội) đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về NSNN huyện/quận và công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách huyện/quận. Phân tích thực trạng công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách quận Nam Từ Liêm để đánh giá kết quả đạt được, hạn chế và tìm ra nguyên nhân. Từ đó, tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách cho quận Nam Từ Liêm. Nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra được những ưu, khuyết điểm trong nghiên cứu công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách huyện/quận và cụ thể hóa vấn đề quản lý chi thường xuyên ngân sách huyện/quận, nhằm hạn chế những biểu hiện tham ô, lãng phí gây thất thoát NSNN.

Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Lê (2015) “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN tỉnh Vĩnh Phúc” (Luận văn Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết, so sánh, thống kê, minh hoạ bằng các biểu bảng; thu thập, xử lý thông tin từ nhiều kênh thông tin khác nhau, từ đó đưa ra hướng giải quyết vấn đề. Nghiên cứu đưa ra những kết luận về hiện trạng, những tồn tại của công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cấp tỉnh và đề xuất các giải pháp nhằm quản lý chi thường xuyên NSNN cấp tỉnh tốt hơn cho giai đoạn tiếp theo, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.

Kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng   - Ảnh 2

Nguyễn Thị Thu Ngân (2017) với đề tài “Quản lý chi thường xuyên NSNN tại thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai” (Luận văn Thạc sỹ Quản lý Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng) đã hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chi thường xuyên NSNN. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách tại Thị xã An Khê và kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời gian tới.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng số liệu thứ cấp và sơ cấp. Cụ thể, số liệu thứ cấp trong nghiên cứu là từ các tài liệu, các báo cáo tổng hợp hàng năm của KBNN huyện Mỹ Xuyên; Luật NSNN, các nghị định, thông tư hướng dẫn công tác quản lý chi, kiểm soát chi đầu tư qua KBNN. Trong khi đó, số liệu sơ cấp là các khảo sát bằng câu hỏi với đối tượng là tất cả cán bộ công chức KBNN Mỹ Xuyên và cán bộ làm công tác thanh toán vốn đầu tư từ nguồn NSNN tại đơn vị sử dụng ngân sách (được gọi là khách hàng) trên địa bàn huyện Mỹ Xuyên. Phương pháp điều tra được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp từ bảng câu hỏi được thiết kế sẵn. Cụ thể gồm 10 cán bộ, công chức (CBCC) KBNN Mỹ Xuyên và 92 khách hàng.

Để làm sáng tỏ vấn đề lý luận, cũng như đánh giá thực trạng công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách qua KBNN Mỹ Xuyên, nhóm tác giả đã thu thập ý kiến của các cán bộ lãnh đạo huyện Mỹ Xuyên, các cán bộ làm công tác tài chính lâu năm để có căn cứ cho việc rút ra các kết luận và đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư XDCB trên địa bàn để đưa ra các kết luận, có căn cứ khoa học nhằm đề xuất giải pháp có sức thuyết phục cao, mang tính khả thi phù hợp với thực tiễn địa bàn nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Từ kết quả phân tích cho thấy, đa số khách hàng và CBCC đều không đánh giá cao về cơ chế chính sách, văn bản pháp luật ban hành liên quan đến công tác quản lý chi NSNN tại KBNN huyện Mỹ Xuyên. Cả khách hàng và CBCC đều đánh giá thấp nhất về chỉ tiêu (2) “Hệ thống các văn bản pháp luật quy định rõ ràng, phù hợp với tình hình thực tiễn”. Trên thực tế, cơ chế, chính sách cùng với các văn bản pháp luật hiện nay liên tục thay đổi và chưa hoàn thiện, có nhiều văn bản chỉ mới ban hành trong thời gian ngắn nhưng phải sửa đổi, các mẫu biểu chứng từ, chế độ báo cáo vẫn chưa đồng bộ, thống nhất từ đó gây khó khăn cho cả khách hàng và CBCC trong việc tiếp cận và triển khai thực hiện.

Qua kết quả khảo sát cho thấy, đa số các chỉ tiêu đánh giá đều đạt ở mức dưới trung bình.

Từ kết quả phân tích trên cho thấy, khách hàng đánh giá khá tốt về thủ tục mở tài khoản giao dịch và phương thức thanh toán. Tuy nhiên, khách hàng lại đánh giá rất thấp về Quy trình kiểm soát thanh toán chi NSNN, thời gian xử lý hồ sơ và trách nhiệm của bộ phận phụ trách công tác kiểm soát thanh toán chi NSNN. Trên thực tế, KBNN huyện Mỹ Xuyên triển khai, thực hiện quy trình kiểm soát, thanh toán chi NSNN theo Quyết định số 2277/QĐ-BTC ngày 02/11/2015 của Bộ Tài chính về triển khai thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trong hệ thống KBNN và Công văn số 743/KBNN-THPC ngày 02/3/2016 về việc hướng dẫn thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trong hệ thống KBNN, nhưng còn gặp khó khăn trong quá trình thực hiện, quy trình xử lý hồ sơ cũng như việc phân công trách nhiệm cán bộ phụ trách công tác kiểm soát thanh toán chi chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả thực hiện chưa cao.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số CBCC chưa đánh giá cao về trách nhiệm và năng lực của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán chi NSNN tại KBNN (Mức điểm đánh giá trung bình đều dưới 3 điểm - mức điểm đánh giá bình thường). Qua đó cho thấy, vẫn còn tình trạng khách hàng chưa nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện thanh toán chi NSNN. Bên cạnh đó, trình độ năng lực chuyên môn của một số khách hàng vẫn còn một số hạn chế dẫn đến các sai sót về hồ sơ chứng từ, thời gian thực hiện các chế độ báo cáo, hoàn thành thủ thanh toán chưa đảm bảo.

Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản tại Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Xuyên

Để hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản qua KBNN huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng thời gian tới cần chú trọng một số vấn đề sau:

- Hoàn thiện quy trình kiểm soát chi đầu tư XDCB qua KBNN: Sắp xếp, đồng bộ các quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB và kiểm soát cam kết chi đầu tư XDCB theo hướng thống nhất đối tượng và phạm vi kiểm soát; từ đó, sắp xếp quy trình kiểm soát chi xuyên suốt từ khâu chuẩn bị hồ sơ, cam kết và thanh toán chi trả cho các đối tượng thụ hưởng; thống nhất và phân biệt rõ ràng công việc chuẩn bị hồ sơ tại từng khâu; hoàn thiện các điều kiện kiểm soát tại từng khâu kiểm soát cam kết và kiểm soát thanh toán theo hướng công khai, minh bạch, áp dụng các điều kiện thuận lợi của công nghệ thông tin, nhằm hướng tới một quy trình kiểm soát chi đầu tư XDCB hiện đại, chặt chẽ, an toàn và hiệu quả.

- Khắc phục những tồn tại trong cơ chế quản lý vốn đầu tư: Thực hiện phân công, phân cấp mạnh trong quản lý đầu tư XDCB. Cùng với việc phân cấp cần bổ sung biên chế gắn với đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu thực thi nhiệm vụ được phân cấp. Ngoài ra, phát huy cơ chế đảm bảo phát huy dân chủ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham quản lý; thực hiện tốt công tác giám sát cộng đồng và đánh giá cộng đồng trong lĩnh vực đầu tư XDCB.

- Hoàn thiện mô hình tổ chức phân cấp và phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi đầu tư XDCB qua KBNN: Thường xuyên phối hợp với các ban, ngành và các chủ đầu tư trong quản lý đầu tư XDCB. Định kỳ hàng quý thực hiện giao ban công tác, hoặc tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành làm việc với các địa phương và kiểm tra thực tế tại hiện trường các công trình, dự án nhằm nắm bắt nhanh về tiến độ thi công, những khó khăn vướng mắc ở cơ sở, từ đó có giải pháp hỗ trợ hoặc tham mưu kịp thời với UBND Huyện để chỉ đạo thực hiện.

- Chỉ đạo điều hành công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản thống nhất: Phân cấp rõ ràng, minh bạch theo nhóm công trình và theo tổng mức đầu tư tạo theo hướng điều kiện thuận lợi nhất cho các chủ đầu tư trong quá trình giao dịch, thanh toán vốn đầu tư cho công trình. Chủ đầu tư căn cứ vào tổng mức đầu tư của công trình là biết được công trình đó sẽ được kiểm soát thanh toán tại đâu; hoặc cán bộ KBNN chỉ cần biết tổng mức đầu tư công trình, dự án thì biết được trách nhiệm kiểm soát, thanh toán vốn cho công trình là của KBNN tỉnh hay KBNN huyện.

- Nâng cao năng lực, chất lượng của đội ngũ cán bộ: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho mỗi cán bộ KBNN theo hướng chuyên nghiệp, đủ tiêu chuẩn năng lực và phẩm chất đạo đức. Đồng thời, cần thường xuyên đào tạo lại, cập nhật thông tin, kiến thức mới để CBCC nắm bắt được các yêu cầu, nhiệm vụ mới của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể thực hiện bằng nhiều hình thức như: Cử đi học và tài trợ toàn bộ kinh phí; tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ một phần kinh phí; tạo điều kiện về thời gian, cán bộ tự chi trả kinh phí; Cán bộ tự xắp xếp thời gian và tự lo kinh phí…

Kết luận

Kiểm soát vốn đầu tư XDCB từ NSNN là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, liên quan đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư và nguồn lực tài chính quan trọng của quốc gia. Do vai trò đặc biệt quan trọng, nên việc kiểm soát nguồn vốn này được chú trọng đặc biệt với nhiều nội dung và phương thức quản lý.

Trong những năm qua, số dự án, nguồn vốn và lượng vốn đầu tư XDCB tăng lên đáng kể. Hoạt động kiểm soát vốn đầu tư XDCB từ NSNN qua KBNN đã có nhiều chuyển biến tích cực trên các mặt công tác như: Tổ chức bộ máy, triển khai thực hiện cơ chế, chính sách quản lý vốn, thực hiện các khâu trong quy trình sử dụng vốn, kiểm tra, kiểm soát, sử dụng vốn. Trong đó, có vai trò đáng kể của hệ thống KBNN địa phương, nhờ đó, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN tại các địa phương được nâng lên, hiện tượng thất thoát, lãng phí vốn được kiểm soát tốt hơn, góp phần phát huy vai trò nguồn lực tài chính này, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tiễn, nhóm tác giả đã làm rõ sự cần thiết phải kiểm soát, quản lý nguồn vốn đầu tư XDCB từ NSNN qua KBNN huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Nhóm tác giả cũng hệ thống hóa các vấn đề lý luận về vốn đầu tư XDCB và kiểm soát chi đầu tư XDCB thuộc NSNN qua KBNN ở Việt Nam.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Đinh Thị Lan Doanh (2018), Hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước tại huyện Minh Hòa, tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Huế;

2. Nay Tuyết Mai (2014), Hoàn thiện quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Đà Nẵng;

3. Nguyễn Thị Thu Ngân (2017), Quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước tại thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng;

4. Cao Thị Nghiên (2018), Kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản tại Kho bạc Nhà nước huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sỹ Quản lý kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế;

5. Nguyễn Đại Quân (2018), Hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc Nhà nước Quảng Ninh - Quảng Bình, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế;

6. Trần Thị Thúy (2015), Quản lý chi thường xuyên ngân sách tại quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Kinh tế , Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội