Kinh tế tuần hoàn thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể bền vững ở tỉnh Ninh Bình
Trong bối cảnh đổi mới hiện nay, cùng với việc nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế quốc dân, thì việc cụ thể hóa và triển khai vận dụng kinh tế tuần hoàn để thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể bền vững của cả nước nói chung và của tỉnh Ninh Bình nói riêng được coi là trọng tâm cần ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế. Bài viết này khái quát chung về kinh tế tuần hoàn, kinh tế tập thể và tầm quan trọng của kinh tế tuần hoàn thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể bền vững; thực trạng tại tỉnh Ninh Bình và một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh kinh tế tuần hoàn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể bền vững.
Đặt vấn đề
Phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) thúc đẩy phát triển bền vững, bảo vệ môi trường trở thành nhu cầu cấp bách, xu thế tất yếu của tiến trình phát triển xã hội hiện nay. Trước bối cảnh việc phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống ngày càng làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái và biến đổi khi hậu thì việc chuyển đổi mô hình kinh tế truyền thống phát triển sang KTTH trở thành nhu cầu cấp bách.
Đối với tỉnh Ninh Bình, trong những năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế chung của cả nước, phát triển kinh tế tập thể (KTTT) theo hướng KTTH đã có bước chuyển mình mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng hoạt động.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển vẫn còn những hạn chế nhất định cả về công tác quản lý và triển khai thực hiện. Vì vậy, việc nghiên cứu KTTH thúc đẩy phát triển KTTT bền vững ở tỉnh Ninh Bình vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cần thiết.
Khái quát về kinh tế tuần hoàn và kinh tế tập thể
Kinh tế tuần hoàn
Tùy theo cách tiếp cận mà các nhà khoa học đã đưa ra quan niệm khác nhau về KTTH, song đến nay định nghĩa được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế thừa nhận rộng rãi là: “KTTH là một hệ thống có tính khôi phục và tái tạo thông qua các kế hoạch và thiết kế chủ động. Nó thay thể khái niệm kết thúc vòng đời của vật liệu bằng khái niệm khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử dụng năng lượng tái tạo, không dùng các hóa chất độc hại gây tổn hại tới việc tái sử dụng và hướng tới giảm thiểu chất thải thông qua việc thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống kỹ thuật và cả các mô hình kinh doanh trong phạm vi của hệ thống đó”.
Ở nước ta, khái niệm KTTH lần đầu tiên được đưa ra trong Luật Bảo vệ môi trường (Luật số 72/2020/QH14) được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17/11/2020: “KTTH là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”.
Kinh tế tập thể và phát triển kinh tế tập thể bền vững
Về mặt lịch sử, KTTT mà nòng cốt là hợp tác xã (HTX) được hình thành đầu tiên ở châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII. Ngày nay, hầu như tất cả các nước trên thế giới đều có KTTT với mức độ ảnh hưởng đáng kể. Ở Việt Nam, khái niệm KTTT đã được đề cập tại Đại hội VI và Đại hội XII của Đảng với nhấn mạnh phát triển KTTT trên nguyên tắc tự nguyện.
Theo Văn kiện của Hội nghị lần thứ năm của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (năm 2002) thì KTTT là thành phần kinh tế có hình thức đa dạng với nòng cốt là HTX phát triển dựa trên sở hữu riêng của thành viên và sở hữu chung của tập thể; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tập trưng, bình đẳng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
Như vậy, về bản chất, KTTT là một quan hệ kinh tế - xã hội, một hình thức tổ chức, mà trong đó các thành viên liên kết góp vốn để xác lập quyền sở hữu, hỗ trợ và hợp tác với nhau trong quá trình sản xuất, kinh doanh trên nguyên tắc tự nguyện nhằm hướng tới lợi ích chung.
Có thể khái quát các quan niệm về phát triển KTTT bền vững:
Một là, phát triển KTTT bền vững trước hết phải được thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế. Đó là, sự gia tăng về quy mô và hiệu quả kinh tế mà thước đo phổ biến được sử dụng chính là mức tăng trưởng về tổng giá trị tài sản, thu nhập bình quân của HTX và doanh thu bình quân của từng thành viên.
Hai là, những biến đổi về cơ cấu kinh tế hiệu quả theo hướng coi trọng phát triển chiều sâu, giảm sự phụ thuộc các yếu tố đầu vào dựa vào các yếu tố phát triển chiều rộng (như thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, vốn và gia tăng số lượng lao động…), thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc, đảm bảo yêu cầu về mức độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Ba là, phát triển KTTT bền vững phải đi đôi với giải quyết tốt hơn vấn đề tiêu thụ tài nguyên và ô nhiễm mô trường, tức là sự phát triển kinh tế phải đảm bảo quá trình sản xuất phải có tính tái tạo, phục hồi thông qua việc thiết kế hệ thống sản xuất không có chất thải hoặc tạo ra chất thải thân thiện bảo vệ môi trường.
Tầm trọng của kinh tế tuần hoàn trong thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể bền vững
KTTH có vai trò quan trọng trong thúc đẩy phát triển KTTT bền vững:
Thứ nhất, KTTH tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Nền KTTH có tác động tích cực đến tăng trưởng và phát triển KTTT thông qua việc sử dụng hiệu quả hơn nguyên liệu và tài nguyên trong chuỗi cung ứng, có thể giảm nhu cầu nguyên liệu thô, hướng tới sử dụng nguồn năng lượng sạch, tiếp cận tới các sản phẩm, vật liệu và hệ thống khác nhau với nhiều liên kết và biện pháp có khả năng phục hồi tốt hơn khi đối mặt với các cú sốc bên ngoài, do vậy giúp kéo dài tuổi thọ của các sản phẩm, tiết tiệm và giảm thiểu chi phí sản xuất, tránh lệ thuộc vào nền kinh tế bên ngoài, nhất là về nguyên liệu và nhiên liệu phục vụ sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, KTTH giúp nâng cao sức cạnh tranh cho KTTT.
Chuyển đổi sang KTTH là một cơ hội lớn cho KTTT phát triển và cải tiến sản phẩm, đặc biệt đối với việc nghiên cứu và phát triển một số mặt hàng chủ lực với chi phí thấp và thân thiện với môi trường. Đây là một lợi thế lớn trong cạnh tranh, do người tiêu dùng ngày càng nhận thức được nguồn gốc sản phẩm và tác động của nó đến môi trường sinh thái.
Thứ ba, KTTH tạo ra sự gắn kết trong mô hình KTTT thông qua sự hợp tác tốt hơn giữa các thành viên trong HTX và giữa các HTX.
Điểm nhấn quan trọng trong mô hình KTTH, đó là một hình thức kinh tế tập trung nâng cao sự gắn kết, hợp tác hơn giữa các khâu, ngành và lĩnh vực. KTTH là nền kinh tế trong đó chất thải của một quá trình sản xuất và tiêu dùng được luân chuyển như một phần mới trong cùng một quá trình hoặc một quá trình khác. Điều đó dẫn đến sự hợp tác giữa các thành viên trong KTTT và giữa các HTX, giữa thành phần KTTT với thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, với cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hoạt động mới.
Kinh tế tuần hoàn và thúc đẩy kinh tế tập thể bền vững ở tỉnh Ninh Bình
Phát triển kinh tế tập thể theo mô hình kinh tế tuần hoàn tại tỉnh Ninh Bình
Từ những năm 1980, ở nước ta nói chung, tỉnh Ninh Bình nói riêng dù chưa xác định hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về việc áp dụng mô hình KTTH trong phát triển kinh tế, song trên thực tế về bản chất đã bước đầu hình thành một số mô hình kinh tế theo hướng KTTH như mô hình vườn - ao - chuồng dựa trên nguyên lý cơ bản của KTTH là “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”. Mặc dù chưa hoàn thiện và áp dụng chủ yếu ở quy mô nhỏ hộ gia đình hoặc HTX, các mô hình này cũng cho thấy, hiệu quả kinh tế ban đầu về việc tận dụng tài nguyên và giảm tác động môi trường do tác hại của các chất thải từ chăn nuôi gây ra.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KTTT và KTTT bền vững, tỉnh Ninh Bình không ngừng quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai hiệu quả việc phát triển KTTT, HTX nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức KTTT hiện có, phát triển mới các tổ chức KTTT, tạo việc làm và tăng thu nhập ổn định cho các thành viên, tổ hợp tác, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình. UBND tỉnh Ninh Bình đã ban hành Đề án số 16/ĐA-UBND ngày 23/11/2021 về phát triển KTTT, HTX tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2021- 2025; Kế hoạch số 68/KH-UBND ngày 17/4/2023 về phát triển KTTT, HTX tỉnh Ninh Bình năm 2023. Trong đó, mục tiêu chung là nâng cao chất lượng hoạt động, hiệu quả hoạt động của các tổ chức KTTT hiện có, phát triển mới các tổ chức KTTT cả về chiều rộng và chiều sâu, áp dụng chuyển đổi số, gắn với chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt chú trọng phát triển các mô hình KTTT, sản xuất theo mô hình KTTH, quy trình sản xuất tiên tiến, sản phẩm chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Thực hiện theo sự chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền, trong những năm qua KTTT đã có sự thay đổi về số lượng và chất lượng mô hình hoạt động theo hướng KTTH. Theo số liệu của UBND tỉnh Ninh Bình (2023), tính đến hết năm 2022, Ninh Bình có 02 liên hiệp HTX, 468 HTX, trên 500 tổ hợp tác và thu hút hơn 330 nghìn thành viên tham gia. Mô hình sản xuất của các HTX cũng dần thay đổi theo hướng tuần hoàn, thân thiện với môi trường, xuất hiện nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ xuất hiện, các HTX sản xuất đã dần gắn với chuỗi giá trị.
Hiện nay, toàn tỉnh có 68 HTX, 2 liên hiệp HTX sản xuất, kinh doanh gắn với chuỗi giá trị sản xuất, một số HTX ứng dụng công nghệ cao liên kết hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp. Các mô hình HTX dần chú trọng khâu chế biến, đảm bảo đủ tiêu chí về an toàn thực phẩm, sản xuất sạch, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, đẩy mạnh liên kết, chuyển đổi số trong quảng bá sản phẩm, từ đó đã tạo nên thương hiệu cho các sản phẩm, thị trường tiêu thụ được mở rộng.
Các mô hình tiêu biểu như mô hình sản xuất dê của liên hiệp HTX dê Ninh Bình, HTX dê Đức Long; mô hình chuỗi sản xuất thuỷ sản của tổ hợp tác Phú Cường, HTX thuỷ sản Đức Cương; ốc nhồi của HTX sinh thái Nho Quan; mật ong, sú vẹt của HTX mật ong, sú vẹt Kim Sơn…. Các HTX và tổ chức đã đổi mới về hoạt động, từng bước khẳng định vai trò, vị thế của thành phần kinh tế, tạo việc làm, thu nhập, xoá đói, giảm nghèo cho các thành viên, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần quan trọng hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh sự thay đổi tích cực và những thành quả được, sự phát triển KTTT theo hướng KTTH ở tỉnh Ninh Bình cũng còn nhiều bất câp. KTTT tuy cũng đã có sự chuyển đổi mô hình, nhưng số lượng còn ít, chất lượng chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của Tỉnh; nhận thức và hiểu biết của người dân về phát triển mô hình sản xuất kinh doanh theo hướng tái chế các nguồn nguyên, nhiên vật liệu chưa cao; vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề hiện đang là điểm nghẽn tác động nghiêm trọng đến phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Tỉnh.
Cơ hội và thách thức
Có nhiều cơ hội triển KTTH thúc đẩy KTTT bền vững ở tỉnh Ninh Bình như:
Một là, nhận thức về tầm quan trọng của phát triển KTTT gắn với KTTH được các cấp lãnh đạo quan tâm và định hướng triển khai hành động là một cơ hội lớn cho sự phát triển KTTT. Sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị để giải quyết các vấn đề quốc gia là cơ hội cho việc tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy KTTH trong phát triển KTTT của Tỉnh.
Hai là, bối cảnh thế giới và trong nước có thuận lợi cho sự phát triển việc nghiên cứu đẩy mạnh đổi mới công nghệ, ứng dụng KTTH vào phát triển KTTT để có thể giải quyết được tình trạng khan hiếm tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và mang lại hiệu quả cho phát triển KTTT, giúp đạt được nhiều mục tiêu, chỉ tiêu, yêu cầu thuộc các mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một nguồn động lực rất lớn nhằm đẩy mạnh phát triển mô hình kinh tế này. Thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, áp dụng công nghệ tiên tiến trong tái chế và tái sử dụng rác và tạo thêm cơ hội việc làm trong lĩnh vực mới.
Ba là, mô hình KTTH cũng từng bước được áp dụng ở nhiều lĩnh vực ở trong và ngoài nước. Điều này khiến cho Ninh Bình có nhiều cơ hội học tập kinh nghiệm để có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với đặc điểm, điều kiện phát triển kinh tế riêng của địa phương.
Bốn là, đối với tỉnh Ninh Bình hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường, lượng chất thải lớn đang là mối đe dọa đến sự phát triển bền vững, ảnh hưởng đến kết quả hoàn thành các mục tiêu của Tỉnh. Do vậy, chủ trương phát triển mô hình KTTH sẽ nhận được sự đồng thuận, ủng hộ cao của các doanh nghiệp và người dân trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều thách thức đối với việc phát triển KTTH thúc đẩy KTTT bền vững ở tỉnh Ninh Bình:
Một là, khó khăn về pháp lý.
Hiện nay, khung chính sách về phát triển mô hình KTTH chưa được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Nhà nước chưa có hành lang pháp lý cũng như chưa xây dựng được bộ tiêu chí cụ thể để nhận diện và đánh giá phát triển KTTH xác định hướng đi cụ thể cho các tỉnh, địa phương về phát triển KTTT.
Hai là, nguồn lực nhân lực cho việc thực hiện KTTH thúc đẩy phát triển KTTT bền vững còn yếu.
Để thực hiện được mô hình KTTH đòi hỏi cần phải có đội ngũ chuyên gia giỏi về khoa học - công nghệ và kiến thức thực tiễn nhằm giải quyết được các vấn đề ở mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất.
Ba là, về tư duy và nhận thức.
Hoạt động kinh tế từ trước đến nay vẫn chủ yếu dựa trên cách tiếp cận kinh tế tuyến tính, để chuyển đổi phát triển KTTT, HTX sang KTTH cần có lộ trình rõ ràng, đặc biệt trong đó, cần nhấn mạnh đến những đổi mới về tư duy và nhận thức. Ninh Bình phát triển các làng nghề như nghề gỗ Ninh Phong, nghề đá Ninh Vân… vẫn chủ yếu với công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ lẻ khiến cho ảnh hưởng đến hệ sinh thái, môi trường xung quanh. KTTH đòi hỏi phải có một sự phân loại rõ ràng các chất, làm sạch chất thải trước khi được đưa vào tái sử dụng, tái chế. Đây là một thách thức lớn với hiện trạng thực tế vận hành mô hình kinh doanh của làng nghề và nhận thức, thói quen phân loại chất tại của người dân thời gian dài trước đó.
Bốn là, về nguồn lực khoa học công nghệ.
Để chuyển đổi sang mô hình KTTH, cần tiếp cận, đổi mới công nghệ và thiết kế mô hình hiện đại an toàn với sức khỏe con người và môi trường. Ninh Bình phát triển KTTT tuy đã có sự cải tiến về khoa học - công nghệ, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều công nghệ lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, cá thể.
Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể Ninh Bình
Với thực tế đó, để nâng cao hiệu quả KTTH thúc đẩy phát triển KTTT bền vững ở tỉnh Ninh Bình, cần tập trung thực hiện các giải pháp gồm:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về KTTH gắn với phát triển KTTT. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo, phối hợp chặt chẽ của các sở, ban, ngành trong việc tích cực triển khai xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng và nghiên cứu sâu rộng về phát triển KTTH. Cần có sự liên kết, thống nhất các ngành, lĩnh vực và địa phương trong việc xác định phương hướng, lộ trình phát triển mô hình HTX theo hướng KTTH một cách tổng thể. Có cơ chế để hình thành động lực thị trường, khuyến khích hỗ trợ về thuế, về công nghệ, đất đai… cho các HTX chuyển đổi mô hình sản xuất kinh doanh phát triển các lĩnh vực thuộc KTTH dựa trên các tiêu chí về hiệu quả sản xuất, hướng và mục đích sản xuất…
Thứ hai, đổi mới tư duy và nhận thức của các thành viên trong HTX về vai trò quan trọng của KTTH cho sự phát triển bền vững của Tỉnh. Các hoạt động cụ thể như xây dựng các mô hình điểm có thể vận dụng các tiêu chí, yêu cầu của mô hình KTTH vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện môi trường riêng biệt của tỉnh Ninh Bình, để từ đó rút kinh nghiệm, áp dụng phổ biến rộng đến các HTX, các doanh nghiệp và hộ kinh doanh. Các HTX cần tìm hiểu, từng bước chủ động, tự giác thực hiện KTTH nhằm hạn chế tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu.
Thứ ba, giải quyết vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ứng dụng mô hình KTTH trong các mô hình của HTX. Tập trung tạo điều kiện đầu tư cho các thành viên HTX đi học tập, nghiên cứu, vận hành và thực hiện trong các mô hình để đem lại hiệu quả tối ưu.
Tài liệu tham khảo:
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội;
- Quốc hội, Luật Bảo vệ môi trường 2020 số 72/2020/QH14;
- UBND tỉnh Ninh Bình (2023), Kế hoạch số 68/KH-UBND ngày 17/4/2023 về phát triển KTTT, HTX tỉnh Ninh Bình năm 2023 ;
- Trần Linh Hương (2020), “Phát triển KTTH tại Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học chính trị, (03/20);
- Ellen MacArthur Foundation (2015), Report on Circular economy.