Luật kinh doanh bất động sản: Bỏ quên thực tiễn?
(Tài chính) Luật Kinh doanh bất động sản có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 cùng Nghị định 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ và Thông tư 13/2008/TT- BXD ngày 21/5/2008 của Bộ Xây dựng đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bất động sản, góp phần phát triển các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác, tạo việc làm cho người lao động và tăng nguồn thu ngân sách, tuy nhiên đến nay, Luật kinh doanh bất động sản đã bộc lộ không ít bất cập.
Hiệp hội bất động sản TP. Hồ Chí Minh (Horea) đã có một số kiến nghị sửa đổi, xuất phát từ thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp và thị trường.
Bỏ quên... nền đất
Một trong những nội dung của Dự thảo Luật sửa đổi là quy định các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh (thuộc khoản 1, điều 5) bao gồm các loại nhà, công trình xây dựng đã có sẵn của các tổ chức, cá nhân. Hore kiến nghị bổ sung “nền nhà” vào khoản 1 điều 5 là một loại bất động sản được đưa vào kinh doanh, theo điều 11 Thông tư liên tịch số: 20/2013/TTLT-BXD-BNV ngày 21/11/2013 của Bộ Xây dựng và Bộ Nội vụ. Ngoài ra, HoRea cũng kiến nghị bổ sung “dự án đầu tư phát triển bất động sản” cũng là một loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.
Có lẽ đây là hai kiến nghị quan trọng và sát sườn với thực tiễn của thị trường khi chỉ tính riêng TP. Hồ Chí Minh, hiện đang có hàng trăm DN chuyên kinh doanh bất động sản với sản phẩm “nền nhà”; cũng đang có hàng trăm DN “kẹt” với hàng loạt “dự án đầu tư phát triển bất động sản” mà có những dự án chỉ mới được cấp phép, còn trên giấy, có dự án đã phát triển hạ tầng, mở bán, còn hàng tồn kho...
Theo thống kê của Savills Việt Nam, tính đến hết quý II/2014, chỉ tính riêng thị trường dự án biệt thự, nhà liền kề (một loại hình dự án bất động sản thường phát triển theo hướng phân lô bán nền) tại TP. Hồ Chí Minh, đang có tổng nguồn cung trên thị trường sơ cấp vào khoảng 1.140 căn.
Nguồn cung tương lai được dự đoán vào khoảng 53.500 căn đến từ 137 dự án trong vòng 8 năm tới và khoảng 1.370 căn từ 10 dự án được kì vọng sẽ tham gia thị trường trong năm nay. Do đó, nếu không có việc bổ sung các sản phẩm “đất nền” như một loại bất động sản được đưa vào kinh doanh của Luật, chắc chắn sẽ có rất nhiều DN vi phạm Luật. Và chưa biết các DN sẽ tháo gỡ hàng nghìn sản phẩm này ra sao.
Quên “quyền” thế chấp bất đọng sản hình thành trong tương lai
Hiện nay, tại khoản 5 điều 13 Nghị định 188/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ đã cho phép thế chấp nhà ở xã hội hình thành trong tương lai với ngân hàng để vay tiền mua, thuê chính căn hộ đó và đã có Thông tư liên tịch số 01/2014-TTLT-NHNN-BXD-BTNMT ngày 25/04/2014 của Ngân hàng Nhà nước– Bộ Xây dựng – Bộ Tư pháp – Bộ Tài Nguyên Môi trường về việc cho phép thế chấp bất động sản thương mại hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, Dự thảo Luật kinh doanh BDS sửa đổi lại không đề cập đến nội dung này. Do đó, HoRea kiến nghị bổ sung vào dự thảo Luật chế định cho phép thế chấp bất động sản hình thành trong tương lai vào điều khoản quy định quyền của chủ đầu tư và người mua bất động sản hình thành trong tương lai để đáp ứng nhu cầu của thị trường và của người tiêu dùng.
Trên thực tế, thị trường hiện vẫn “linh động” cho chủ đầu tư và người mua bất động sản thế chấp tài sản hình thành trong tương lai để vay vốn ngân hàng. Chẳng hạn, nhiều người vay mua nhà ở xã hội từ gói tín dụng ưu đãi lãi suất 30.000 tỷ đồng, nếu không thế chấp chính tài sản hình thành trong tương lai căn hộ nhà ở xã hội đang được chủ đầu tư phát triển với sự thỏa thuận, cam kết ba bên giữa ngân hàng – chủ đầu tư và người mua – nếu không sử dụng “quyền” này, e rằng sẽ chẳng có ngân hàng nào dám cấp tín dụng cho người vay mua.
Tương tự, nhiều DN, chủ đầu tư cũng đã thế chấp tài sản hình thành trong tương lai để lấy nguồn vốn phát triển tiếp dự án địa ốc đang dang dở hoặc chỉ mới khai phá theo đúng quy định bước đầu. Sự “linh động” của thị trường chưa hẳn gọi là “đi trước” Luật, nhưng một khi đã được Luật hóa, hợp pháp hóa theo đúng quy định pháp lí, thì tin rằng các quy định của các Thông tư, hướng dẫn, gọi chung là các văn bản dưới Luật sẽ rõ ràng, minh bạch, sát sườn với thực tiễn thị trường hơn nữa.
Các thành phần trên thị trường cũng sẽ dựa trên cơ sở của Luật pháp để minh định quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong việc thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, tránh các trường hợp một tài sản được thế chấp nhiều lần để vay vốn ngân hàng hoặc để vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau… như một số các trường hợp đã diễn ra.