Luật Thủ đô (sửa đổi): Hạn chế được việc "vênh chính sách"


Từ những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, Luật Thủ đô (sửa đổi) đang trong quá trình hoàn thiện, khai thác nguồn lực chưa được tận dụng, đưa ra thể chế vượt trội, cơ chế mang tính chất đặc thù, tạo điều kiện cho Thủ đô tạo bước phát triển bứt phá thời gian tới.

Hà Nội dự kiến có 9 nhóm chính sách được đề xuất trong Luật Thủ đô (sửa đổi) - Ảnh: VGP/Gia Huy
Hà Nội dự kiến có 9 nhóm chính sách được đề xuất trong Luật Thủ đô (sửa đổi) - Ảnh: VGP/Gia Huy

Sẽ hạn chế việc "vênh chính sách"

Luật Thủ đô được Quốc hội thông qua vào ngày 21/11/2012 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2013. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, quy định vị trí, vai trò, trách nhiệm và chính sách xây dựng phát triển, bảo vệ Thủ đô.

Sau gần 10 năm đi vào đời sống, việc thực thi những cơ chế đặc thù trong Luật Thủ đô đã mang lại những kết quả tích cực trong công tác xây dựng, phát triển, quản lý của thành phố Hà Nội, song cũng bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế.

Tại cuộc tọa đàm với chủ đề "Luật Thủ đô (sửa đổi), xây dựng thể chế vượt trội cho sự phát triển của Thủ đô" mới diễn ra, TS. Dương Thị Thanh Mai - Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã trả lời câu hỏi tại sao phải sửa đổi Luật Thủ đô năm 2012 và việc sửa đổi giải quyết vấn đề gì đặt ra trong thực tiễn.

TS. Dương Thị Thanh Mai cho biết, nhìn từ góc độ thực tiễn, mặc dù có nhiều đóng góp tích cực, bên cạnh đó Luật Thủ đô năm 2012 đã có 14 diều quy định về 13 chính sách đặc thù để phát triển của Thủ đô trong giai đoạn 2011-2020, nhưng hiệu lực pháp lý thực tế của Luật Thủ đô chưa đạt mục tiêu đề ra.

Lý giải về vì sao chưa đạt mục tiêu đề ra, TS. Dương Thị Thanh Mai cho biết, Luật Thủ đô được thông qua được thông qua có hiệu lực từ 1/7/2023, tức là khoảng 5 tháng trước khi Hiến pháp 2013 được Quốc hội ban hành.

Trong 10 năm thực thi Luật Thủ đô, cũng là 10 năm hệ thống pháp luật Việt Nam có sự phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng.

Trong khi đó, nguyên tắc là các Luật ban hành sau Luật Thủ đô có điều chỉnh những vấn đề đã quy định trong Luật Thủ đô thì áp dụng Luật ban hành sau. Vì vậy, một số chính sách đặc thù trong Luật Thủ đô bị "vênh chính sách" với các Luật ban hành sau.

TS. Dương Thị Thanh Mai nêu ví dụ về việc người dân Hà Nội rất quan tâm là vấn đề cải tạo chung cư cũ, điều này được quy định trong Điều 16 Luật Thủ đô.

Hà Nội cũng có nhiều chương trình, HĐND cũng ban hành nghị quyết, tuy nhiên lại vướng với văn bản quy định chi tiết Luật Xây dựng, Luật Nhà ở ban hành sau Luật Thủ đô.

Vì vậy, đến tận năm 2021, khi Bộ Xây dựng sửa đổi 2 thông tư và đến tháng 7/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2021/NĐ-CP về cải tạo, xây dựng chung cư cũ thì mới tháo gỡ được phần nào.

Vấn đề quan trọng hơn theo TS. Dương Thị Thanh Mai là hạn chế về tính khả thi, tính phù hợp của chính sách đặc thù trong Luật Thủ đô. Mặc dù những chính sách này đúng nhưng lại khá chung chung, mang tính định hướng hơn mà thiếu cơ chế thực hiện, đặc biệt là điều kiện bảo đảm để thực hiện.

Ví dụ lĩnh vực về tổ chức chính quyền và bộ máy của TP. Hà Nội, trong Luật Thủ đô không có điều nào quy định về tổ chức bộ máy của Thủ đô, vì vậy cũng không có quy định về phân cấp, phân quyền cho Thủ đô trong tổ chức bộ máy, cơ quan giúp việc và đội ngũ nhân lực.

Đến tận năm 2019, trên cơ sở Đề án của Hà Nội, Quốc hội thông qua 2 Nghị quyết quan trọng trong vấn đề này, đó là Nghị quyết số 97/2019/QH14 về thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị tại Hà Nội với việc không tổ chức HĐND cấp phường và Nghị quyết số 115/2020/QH14 về cơ chế, chính sách đặc thù về tài chính, ngân sách để phát triển Thủ đô.

Hiện nay, hai Nghị quyết này hiện được thí điểm và đến quý III/2023 mới có sơ kết, đánh giá những tác động tích cực của những nghị quyết đặc thù này để có thể Luật hoá và đưa vào trong Luật Thủ đô (sửa đổi).

Còn theo TS. Lê Duy Bình - Chuyên gia kinh tế, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, để có thể giải quyết được vấn đề thực tiễn, để Hà Nội trở thành trung tâm chính trị của cả nước; đồng thời là trung tâm kinh tế, là động lực tăng trưởng cho vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thì Thủ đô cần có cơ sở hạ tầng, hệ thống y tế, giáo dục hiện đại để người dân có thể hưởng lợi, để nhà đầu tư có thể yên tâm trong quá trình sản xuất, kinh doanh… Điều này cần có nguồn lực, nhưng nguồn lực hiện nay chưa đủ.

Với mục tiêu để bảo đảm điều kiện còn chưa được đáp ứng đầy đủ trong Luật Thủ đô năm 2012 thì theo TS. Lê Duy Bình, yêu cầu hết sức cấp thiết là đưa ra thể chế vượt trội, cơ chế mang tính chất đặc thù áp dụng cho Thủ đô (sửa đổi), từ đó cho phép khai thác nguồn lực của Thủ đô chưa được sử dụng một cách hiệu quả trong quá trình phát triển của Thủ đô.

Giải quyết vấn đề xung đột giữa các văn bản pháp luật

TS. Dương Thị Thanh Mai cũng giải đáp câu hỏi về Luật Thủ đô (sửa đổi) có xử lý được khả năng xung đột với các văn bản pháp luật hiện nay không.

Theo TS. Mai, không chỉ Luật Thủ đô năm 2012, mà còn một số Nghị quyết đặc thù cho các địa phương, khi đã là cơ chế đặc thù thì không thể tránh khỏi có xung đột với các văn bản pháp luật hiện nay.

Vấn đề đặt ra là phải xử lý tốt xung đột này và cũng cần nhìn nhận khi có sự phát triển kinh tế-xã hội không đồng đều giữa các địa phương và mỗi địa phương có đặc điểm riêng thì việc ban hành thể chế cho từng địa phương là điều tất yếu phải làm.

Để giải quyết vấn đề này, theo TS. Dương Thị Thanh Mai, trong phần trình của Chính phủ lên Quốc hội về phạm vi điều chỉnh có nội dung phải quy định về nguyên tắc áp dụng cho Luật Thủ đô (sửa đổi).

Nguyên tắc này có 2 nội dung: Thứ nhất là quy định ưu tiên áp dụng Luật Thủ đô so với các luật khác khi thực hiện các chính sách đặc thù, vượt trội được quy định trong Luật Thủ đô.

Vậy các luật khác hiện này có nội dung trùng thì sẽ ưu tiên áp dụng Luật Thủ đô. Với các luật ban hành sau thì nếu Luật Thủ đô vượt trội hơn thì áp dụng Luật Thủ đô.

Tuy nhiên, thứ hai là cần làm rõ nếu luật ban hành sau cùng một vấn đề với Luật Thủ đô nhưng lại có ưu đãi, ưu tiên hơn thì phải làm như thế nào.

Việc này TS. Dương Thị Thanh Mai cho biết, hiện nay đang có đề xuất cơ chế nữa, đó là việc nếu luật ban hành sau có nội dung trùng với Luật Thủ đô mà có chính sách ưu đãi hơn thì sẽ do HĐND Thành phố lựa chọn nhưng phải dưới sự giám sát của Quốc hội.

Theo bà Mai, với hai nguyên tắc như trên hy vọng sẽ khắc phục được hạn chế của Luật Thủ đô năm 2012 và giải quyết được xung đột giữa các văn bản luật.

9 nhóm chính sách được đề xuất trong Luật Thủ đô (sửa đổi)

Trên cơ sở tổng kết thực hiện Luật Thủ đô năm 2012 và từ thực tiễn đời sống Thủ đô, Hà Nội đang tập trung xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi), đề xuất 9 nhóm chính sách theo hướng thực sự trao cho Hà Nội những cơ chế có tính vượt trội, khả thi, tạo điều kiện cho Thủ đô phát triển xứng tầm.

Chính sách 1: Tổ chức chính quyền Thủ đô theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Chính sách 2: Thu hút, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển Thủ đô.

Chính sách 3: Nâng cao năng lực tài chính - ngân sách và huy động nguồn lực cho phát triển của Thủ đô.

Chính sách 4: Phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông của Thủ đô.

Chính sách 5: Xây dựng, phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.

Chính sách 6: Phát triển văn hóa và giáo dục Thủ đô.

Chính sách 7: Huy động, sử dụng, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Chính sách 8: Phát triển hệ thống y tế hiện đại và hệ thống an sinh xã hội Thủ đô toàn diện, bao trùm và bền vững.

Chính sách 9: Liên kết, phát triển vùng Thủ đô trở thành khu vực phát triển nhanh, bền vững về kinh tế - xã hội, xanh, văn minh, năng động, trở thành khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước.

TS. Dương Thị Thanh Mai cho biết, nhìn vào hệ thống 9 chính sách được đề xuất này thì có 7 chính sách liên quan phân cấp, phân quyền và các chính sách đặc thù, vượt trội trong lĩnh vực quản lý đô thị, nông thôn, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ và liên kết vùng. Còn 2 chính sách còn lại là về điều kiện bảo đảm chung cho việc thực thi 9 chính sách này.

Riêng chính sách 1 về tổ chức chính quyền Thủ đô theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, TS. Dương Thị Thanh Mai nêu, trong Luật Thủ đô năm 2012 không có quy định về tổ chức, chính quyền, vì vậy không có quy định về phân cấp, phân quyền để trao cho Thủ đô những công cụ vượt trội nào về tổ chức bộ máy.

Lần này, trong dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), với chính sách 1, ngoài việc đang thực hiện thí điểm Nghị quyết về tổ chức mô hình chính quyền đô thị thì có nghiên cứu, bổ sung mô hình đã được đề cập trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, đó là mô hình về thành phố trong thành phố, thành phố trong Thủ đô.

Trong chính sách 1 còn thể hiện các tính đột phá như: Thứ nhất là trao quyền cho chính quyền thành phố được quyết định điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức thuộc các cơ quan thành phố.

"Thứ hai là trao quyền cho Thủ đô trong tự quyết định biên chế cho các cơ quan trực thuộc, trên cơ sở tổng biên chế được Chính phủ phê duyệt. Việc trao quyền này sẽ giúp cho tính chủ động, tự chịu trách nhiệm đến từng quận huyện thì công việc sẽ tốt hơn’, TS. Dương Thị Thanh Mai chia sẻ.

Sau quá trình chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng và có chất lượng, đến nay, Hồ sơ xây dựng Luật Thủ đô sửa đổi đã được chỉnh lý, bổ sung, hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của 19 Bộ ngành, 10 UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong Vùng Thủ đô, được Chính phủ trình Quốc hội xem xét bổ sung vào chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2023, 2024.

Dự án Luật Thủ đô sửa đổi dự kiến trình Quốc hội xem xét cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6 vào cuối năm 2023, xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 7 diễn ra tháng 5/2024.

Theo Gia Huy/baochinhphu.vn