Mở rộng hợp tác tài chính trong bối cảnh mới
Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính đã và đang được triển khai sâu rộng.
Chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng qua 30 năm đổi mới
Từ những năm 1980 đến nay, chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất quán, không ngừng được hoàn thiện, triển khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước và xu thế quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Đảng đã đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác”.
Thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Đây là lần đầu tiên Nghị quyết của Đảng đề cập đến việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Tiếp đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một bước phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI.
Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Việt Nam đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế
Đến nay, Việt Nam đã ký kết 11 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 26 quốc gia; Tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU); Đang triển khai đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP); Cùng các nước ASEAN tuyên bố thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Phạm vi hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng từ thương mại hàng hóa sang thương mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ tài chính, đầu tư, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ...
Yêu cầu hội nhập trong tình hình mới
Để triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm, Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục yêu cầu: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng…; Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; Đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể…; Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết…”.
Tiếp đó, tại Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về “Thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” nhằm thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo đó, bốn nhóm giải pháp quan trọng được đưa ra là:
Một là, xử lý thoả đáng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh kinh tế.
Hai là, thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa là tiền đề, vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Xác định gia tăng xuất khẩu, số lượng và chất lượng thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế là các tiêu chí kinh tế trực tiếp để đánh giá kết quả hội nhập quốc tế về kinh tế.
Ba là, tiếp tục thực hiện 3 đột phá chiến lược, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững; thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình hình mới và thực thi các cam kết quốc tế. Tập trung nghiên cứu, triển khai thực hiện các giải pháp mới có hiệu quả để phát huy sức mạnh tổng hợp và sự sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp (DN), doanh nhân; huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
Bốn là, trong 5 – 10 năm tới, tập trung thực hiện khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách phòng vệ thương mại, phòng ngừa và giải quyết tranh chấp quốc tế; có chính sách phù hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh thấp vươn lên; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù hợp.
Hội nhập tài chính và những thách thức
Trong giai đoạn vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng và sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, các nhiệm vụ về hội nhập quốc tế ngành Tài chính đã được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, bao gồm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuận lợi hóa thương mại và hải quan, dịch vụ chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn thuế, đàm phán và ký kết các hiệp định, thỏa thuận vay nợ, viện trợ của nước ngoài, hiệp định tránh đánh thuế trùng, hiệp định hỗ trợ hành chính và hợp tác hải quan với các nước...
Việc thực hiện tiến trình này trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ của ngành Tài chính về phát triển kinh tế - xã hội, tạo nền tảng cho các bước đi của những năm tiếp theo; tác động đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ…
Hội nhập tài chính đã góp phần thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao hơn; thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng quan hệ hợp tác phát triển; góp phần bổ sung nguồn vốn quan trọng từ bên ngoài phục vụ đầu tư phát triển và bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính cũng còn tồn tại một số hạn chế, đặt ra một số thách thức như: (i) Sức cạnh tranh của nền kinh tế, DN Việt Nam cũng như từng sản phẩm còn thấp, thị trường dịch vụ tài chính trong nước chưa thực sự phát triển; (ii) Tính bền vững của ngân sách nhà nước chưa được đảm bảo do tác động của việc cắt giảm thuế nhập khẩu, vấn đề an toàn nợ công, cùng với việc Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp sẽ làm thay đổi điều kiện huy động vốn vay nước ngoài theo hướng giảm dần vay ưu đãi; (iii) Nhiều yêu cầu mới đặt ra cho công tác hoàn thiện khung khổ pháp luật và thể chế tài chính...
Bên cạnh đó, các yêu cầu về trình độ đội ngũ cán bộ và năng lực của các đơn vị trong ngành Tài chính cũng được đặt ra để đáp ứng yêu cầu quản lý, giám sát thị trường tài chính, thị trường dịch vụ tài chính, cải cách thủ tục hành chính, hạn chế gian lận thương mại… cũng như điều hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác tuyên truyền, phổ biến về hội nhập, đặc biệt là thông tin đến các hiệp hội, DN về nội dung hiệp định thương mại tự do, tham vấn DN trong nước về yêu cầu mở cửa các thị trường đối tác, cũng như sự chuẩn bị kỹ cho các bước cắt giảm thuế quan cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.
Mở rộng hội nhập tài chính theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
Để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 06-NQ/TW về “Thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, trong thời gian tới, ngành Tài chính tiếp tục tập trung vào một số nội dung chính gồm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật; Nâng cao năng lực cạnh tranh; Góp phần giải quyết tốt các vấn đề môi trường.
Thứ nhất, thực hiện chủ trương hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực thực thi pháp luật, cụ thể: Hoàn thiện cơ chế về chuyển DN 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần là cơ sở pháp lý để thực hiện cổ phần hóa trong giai đoạn 2016-2020.
Hoàn thiện cơ chế về hoạt động của DN nhà nước để thực hiện sắp xếp, tăng cường minh bạch báo cáo tài chính, thông tin tài chính, kinh doanh, điều hành tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; tăng cường trách nhiệm của Hội đồng thành viên và Ban điều hành.
Xây dựng và hướng dẫn triển khai Luật Quản lý, sử dụng tài sản công theo hướng đổi mới, hoàn thiện chế độ quản lý, sử dụng tài sản công đảm bảo tất cả các loại tài sản công quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013 đều được quản lý chặt chẽ, hiệu quả bằng pháp luật; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các Luật có liên quan như: Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Kiểm toán nhà nước...
Đồng thời, ngành Tài chính tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến thực hiện mua sắm tài sản công theo phương thức tập trung; đổi mới cơ chế tài chính phục vụ quản lý, sử dụng, khai thác tài sản kết cấu hạ tầng như: đường sắt, cảng biển, hàng không, thủy lợi...
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý nợ công, trong đó nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý nợ công năm 2009, đồng thời sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý nợ công, cũng như các quy định khác có liên quan nhằm từng bước nới lỏng các giao dịch vốn để đáp ứng xu thế hội nhập, mở rộng các quan hệ tài chính, thương mại với thế giới trên cơ sở thiết lập hệ thống quản lý chặt chẽ, kiểm soát di chuyển các dòng vốn nước ngoài, phát hiện sớm các rủi ro tiềm ẩn và có biện pháp dự phòng phù hợp; quy định rõ thẩm quyền vay, trả nợ, thống nhất cơ quan quản lý nợ công.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, tiếp tục thực hiện nhất quán nguyên tắc quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trong đó, phạm vi định giá của Nhà nước đối với các hàng hóa, dịch vụ được thu hẹp và xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể, rõ ràng hơn; Nhà nước chỉ còn định giá một số ít hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, quan trọng, có ảnh hưởng tới an sinh xã hội, góp phần khắc phục các hạn chế, khuyết tật của cơ chế thị trường, tạo môi trường cạnh tranh về giá theo pháp luật, đưa giá cả hàng hóa, dịch vụ trở thành tín hiệu khách quan đối với các chủ thể trong nền kinh tế, tạo động lực kích thích sản xuất phát triển.
Thứ hai, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nhất là lĩnh vực thuế và hải quan. Một số nội dung cải cách thủ tục hành chính giai đoạn tới là tăng tỷ lệ DN nộp thuế điện tử, đổi mới trong công tác cải cách thủ tục hành chính thuế đối với cá nhân, hộ kinh doanh, nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin ở khu vực này.
Hệ thống hạ tầng viễn thông, đầu tư cơ sở vật chất sẽ được tăng cường để góp phần thực hiện cải cách thủ tục hành chính nói chung và thủ tục hành chính tài chính, thuế và hải quan nói riêng, rút ngắn khoảng cách so với nhiều nước trong khu vực về thời gian làm thủ tục thuế, hải quan, đăng ký kinh doanh…; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính, xây dựng và triển khai các hệ thống thông tin lớn trong ngành Tài chính, tích hợp và đồng bộ các hệ thống thông tin tài chính.
Thứ ba, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Thuế bảo vệ môi trường nhằm góp phần thực hiện chủ trương giải quyết tốt các vấn đề môi trường, theo hướng khuyến khích phát triển năng lượng sạch nhằm khuyến khích DN, người dân chuyển đổi hành vi sử dụng, tiêu dùng sản phẩm góp phần bảo vệ môi trường, qua đó động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung đối tượng thu, điều chỉnh mức điều tiết nhằm góp phần hạn chế sử dụng hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường sinh thái, góp phần thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững.
Thứ tư, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác tài chính trong các diễn đàn APEC, ASEM, ASEAN, ASEAN+ thông qua việc chủ động đề xuất và tích cực tham gia các chương trình hợp tác quốc tế, nâng cao tiếng nói và vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn hợp tác tài chính quốc tế, từng bước tiếp cận với các thị trường tài chính tiên tiến; Mở rộng đối thoại chính sách và trao đổi kinh nghiệm về tài chính – tiền tệ với các chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế.
Đa dạng hóa nội dung, hình thức và các đối tác hợp tác quốc tế, gắn hợp tác quốc tế với yêu cầu hiện đại hóa ngành Tài chính; Mở rộng các kênh khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong lĩnh vực tài chính.
Thứ năm, thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tài chính, đẩy mạnh quá trình nội luật hóa các cam kết quốc tế, tuân thủ lộ trình thực hiện, đáp ứng đầy đủ nội dung và mức độ đã cam kết trên cơ sở đảm bảo tối ưu lợi ích quốc gia, lợi ích của các tổ chức, cá nhân, chủ động ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế.
Chủ động tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do đã ký kết nhằm nâng cấp hiệp định và tiếp tục mở rộng đàm phán các hiệp định đang đàm phán như mở rộng đàm phán dịch vụ tài chính trong ASEAN, đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện (RCEP), đàm phán Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Hồng Kông (AHKFTA)...