Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiếm toán là tính độc lập của kiểm toán viên. Nhiều quốc gia đã ban hành các quy định về luân chuyển kiểm toán viên, tuy nhiên, quy định này đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, quản lý cũng như các hội nghề nghiệp. Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, kết quả nghiên cứu này cho thấy, không có mối liên hệ giữa việc luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán tại các công ty niêm yết ở Việt Nam.
Những năm gần đây, tình trạng báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết có sự thay đổi số liệu giữa trước và sau kiểm toán diễn ra khá phổ biến. Mặc dù, đã có sự giải trình của các công ty nhưng nhìn chung vẫn chưa giải tỏa được sự hoài nghi của các nhà đầu tư về chất lượng BCTC của các công ty niêm yết.
Điều này cũng cho thấy vai trò quan trọng của kiểm toán độc lập trong việc nâng cao chất lượng BCTC của các công ty niêm yết. Nhà đầu tư kỳ vọng vào chất lượng kiểm toán BCTC của các công ty kiểm toán độc lập trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.
Chất lượng kiểm toán gắn liền với chất lượng BCTC. Tuy nhiên, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Một trong những nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng kiểm toán là tính độc lập của kiểm toán viên (KTV).
Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa thời gian luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán ở các công ty niêm yết tại Việt Nam nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về vấn đề này, qua đó giúp các cơ quan quản lý Nhà nước có những chính sách phù hợp với thực tế tại Việt Nam.
Cơ sở lý thuyết
Chất lượng kiểm toán
Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của nhà đầu tư, Beatty (1989) cho rằng, chất lượng kiểm toán được thể hiện qua sự trung thực của thông tin tài chính được trình bày trên BCTC sau khi kiểm toán. Trách nhiệm của KTV là phải làm giảm thiểu các sai sót và nâng cao độ trung thực của dữ liệu kế toán.
Quan điểm này quan tâm đến kết quả của dịch vụ kiểm toán hay nói cách khác đó là sự trung thực của BCTC. Khi thông tin trên BCTC không trung thực, hợp lý thì chất lượng kiểm toán đã không được đảm bảo cho dù KTV đã tuân thủ các chuẩn mực có liên quan.
Mô hình đo lường chất lượng kiểm toán
Dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích của kế toán, lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp (DN) được chia thành hai loại là lợi nhuận bằng tiền (cash earnings) và lợi nhuận dồn tích (accrual earnings). Trong đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các khoản doanh thu và chi phí bằng tiền mà DN đã thu và chi trong kỳ.
Trong khi đó, lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận được tính trong kỳ của DN nhưng chưa thu được bằng tiền như các khoản doanh thu bán chịu cho khách hàng sau khi trừ các khoản chi phí không bằng tiền như: chi phí phải trả; chi phí dự phòng; khấu hao tài sản cố định...
Các nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng, hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty xuất phát từ các khoản lợi nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản dồn tích trong lợi nhuận (total accrual earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi tắt là biến kế toán dồn tích. Khoản dồn tích trong lợi nhuận (TA) được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận kế toán sau thuế trừ lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh:
TA = LN sau thuế – Dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh
Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA làm thước đo điều chỉnh lợi nhuận vì thực tế có các khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh của ND như các khoản doanh thu bán chịu trong kỳ, các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, các khoản chi phí phải trả… Do đó, cần phải chia biến TA thành hai phần gồm:
- Các khoản dồn tích không tự định (Non-discretionary accruals viết tắt là NDA): là các khoản dồn tích được thực hiện theo những qui định, nguyên tắc của chuẩn mực và chế độ kế toán.
- Các khoản dồn tích tự định (Discretionary accruals viết tắt là DA) hay còn gọi là các khoản dồn tích bất thường (abnormal accruals) - các khoản dồn tích do nhà quản lý thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ.
Biến DA cho thấy, có sự điều chỉnh chủ quan từ nhà quản lý đến lợi nhuận của doanh nghiệp nên là thước đo để đánh giá thông tin lợi nhuận và từ đó đánh giá chất lượng kiểm toán. Để ước tính giá trị của DA trong TA, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã sử dụng mô hình của Dechow và cộng sự (1995) được cải tiến từ mô hình gốc của Jones (1991).
Mô hình Jones (1991). Jones đã đưa ra mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh thu nhập thông qua 2 bước:
- Bước 1: Xác định biến kế dồn tích không tự định (NDA) theo phương trình sau:
NDAt/At-1 = α/At-1 + β1 ΔREVt/At-1 + β2 PPEt/At-1
Trong đó:
NDAt: Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh được năm t.
At-1: Tổng tài sản cuối năm t-1.
ΔREVt: Biến động doanh thu thuần năm t.
PPEt: Nguyên giá của tài sản cố định hữu hình năm t.
α, β1, β2 là những tham số được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất của các hệ số a1, a2, a3 trong mô hình sau:
TAt /At-1 = a0 + a1/At-1 + a2 ΔREVt/At-1 + a3 PPEt/At-1 + εt
Phần dư ε trong mô hình trên đại diện cho biến chưa thể nhận diện được, bao gồm cả biến dồn tích tự định (DAt)
- Bước 2: Sau khi ước lượng biến dồn tích không tự định (NDA), từ phương trình:
DAt = TAt – NDAt
Ta có:
DAt/At-1 = TAt/At-1 – NDAt/At-1
Từ đó xác định biến kế toán dồn tích tự định như sau:
DAt/At-1 = TAt/At-1 - a1 1/At-1 - a2 ΔREVt/At-1 - a3 PPEt / At-1
Mô hình Jones cải tiến của Dechow và cộng sự (1995)
Hạn chế của mô hình Jones (1991) là khi chọn REV làm biến nghiên cứu thì có thể doanh thu thuần cũng cũng bị tác động thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận không đúng niên độ và các khoản này có thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. Do đó, Dechow và cộng sự (1995) đã cải tiến mô hình của Jones bằng cách bổ sung thêm vào mô hình sự thay đổi của tài khoản nợ phải thu khách hàng (ΔREC) nhằm loại bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn tích do sự tăng lên của tài khoản phải thu khách hàng trong kỳ. Mô hình Jones được cải tiến như sau:
NDAt/At-1 = α/At-1 + β1 (ΔREVt - ΔRECt)/At-1 + β2 PPEt/At-1
Dechow và cộng sự (1995) cho rằng mô hình Jones cải tiến đã phát hiện ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận tốt hơn so với mô hình nguyên gốc của Jones. Do đó, nghiên cứu này cũng sử dụng mô hình trên để đo lường chất lượng kiểm toán.
Phương pháp nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu
Từ mô hình của Dechow và cộng sự (1995), ta tính được:
DAit/At-1 = TAit/At-1 - NDAit/At-1
Khi tỷ số DAit/At-1 quá cao thể hiện các khoản DA trong lợi nhuận lớn và chất lượng kiểm toán giảm xuống. Tuy nhiên, trên thực tế giá trị của DA của từng công ty có thể mang giá trị âm hoặc dương tùy thuộc vào hành vi của nhà quản lý trong kỳ muốn thổi phồng lợi nhuận (DA>0) hay giảm bớt lợi nhuận (DA<0). Do đó, nghiên cứu này sử dụng giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 làm biến phụ thuộc trong phương trình hồi quy để đại diện cho chất lượng kiểm toán BCTC. Ký hiệu giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 là |DA|
Ngoài ra, kế thừa các nghiên cứu trước đây về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Chen và cộng sự (2008); Sylvia Veronica Siregar và cộng sự (2012), nghiên cứu này sử dụng mô nghiên cứu sau để xem xét mối quan hệ giữa chất lượng kiểm toán BCTC (được đo lường bằng giá trị |DA|) và các biến độc lập có liên hệ với mức độ điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể mô hình nghiên cứu như sau:
|DA| = α + β1TENURE + β2BIG4 + β3LEV + β4GROW + β5CFO + β6SIZE + ε
Trong đó:
|DA|: Chất lượng KT (được đo lường bằng mức độ điều chỉnh lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích)
TENURE: Thời gian luân chuyển KTV (được xác định bằng cách đếm số năm một KTV thực hiện công việc kiểm toán cho một công ty)
BIG4: Biến giả, biến này sẽ mang giá trị bằng 1 nếu công ty kiểm toán là một trong Big4, nếu không phải Big4 thì mang giá trị bằng 0.
LEV: Tỷ lệ nợ của công ty (được xác định bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia cho tổng tài sản trong kỳ)
GROW: Tốc độ tăng trưởng của công ty (được xác định bằng cách lấy tổng tài sản năm t trừ tổng tài sản năm t-1 và chia lại cho tổng tài sản năm t-1)
CFO: Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty trong năm
SIZE: Quy mô công ty (được xác định bằng cách lấy logarit của tổng tài sản doanh nghiệp)
Phương pháp thu thập dữ liệu
Trong nghiên cứu này, để xem xét mối quan hệ của việc luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán thì cần phải có dữ liệu chuỗi thời gian tương đối dài. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 66 công ty niêm yết trong 10 năm từ 2006 đến 2015 làm mẫu nghiên cứu với 660 quan sát.
Nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu trên BCTC bao gồm số dư các khoản mục các khoản phải thu khách hàng, tổng nợ phải trả, giá trị còn lại tài sản cố định, tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán; khoản mục lợi nhuận trước thuế thu nhập, doanh thu thuần trong kỳ trên báo cáo kết quả kinh doanh; khoản mục lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trên báo cáo kiểm toán, tên KTV chính thực hiện kiểm toán BCTC năm đó và tên công ty kiểm toán độc lập sẽ được ghi nhận lại.
Mỗi chuỗi số liệu sẽ được tính toán bằng phần mềm Excel để tính tổng lợi nhuận dồn tích (TA), từ đó tính toán thông qua mô hình nghiên cứu nói trên để tính toán các khoản dồn tích tự định (DA). Mỗi chuỗi số liệu sau khi tính toán các giá trị cần thiết sẽ là một quan sát để chạy hồi qui trên phần mềm SPSS để tìm mối tương quan giữa nhiệm kỳ kế toán và chất lượng kiểm toán.
Kết quả và thảo luận
Kết quả thống kê thời gian luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán
Để phân tích tương quan giữa biến TENURE và DA, nghiên cứu tính giá trị trung bình của DA tương ứng với từng năm luân chuyển KTV, kết quả được trình bày trong Bảng 1.
Qua Bảng 1, ta thấy giá trị trung bình của DA thấp nhất là ở năm thứ 5 (0,1514) và cao nhất là ở năm thứ 7 (0,5014). Tuy nhiên, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 giá trị DA giảm dần qua từng năm, đến năm thứ 6 thì DA tăng trở lại và đặc biệt tăng cao ở năm thứ 7. Do đó, chất lượng kiểm toán có xu hướng tăng dần từ năm kế toán thứ 3 đến năm thứ 5. Bước sang năm thứ 6 thì chất lượng kiểm toán bắt đầu có xu hướng giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7. Kết quả này cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán không vượt quá 5 năm thì giá trị DA trung bình càng giảm xuống tức là chất lượng kiểm toán tăng lên.
Kết quả phân tích hồi quy
Để có thể khẳng định việc luân chuyển KTV có ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán không, nghiên cứu tiếp tục thực hiện hồi quy đa biến với mô hình nghiên cứu được đề xuất ở trên. Kết quả hồi quy được trình bày ở Bảng 2.
Kết quả hồi quy đa biến thể hiện ở Bảng 2 cho thấy biến TENURE không có ý nghĩa thống kê trong mô hình (giá trị sig đều lớn hơn 5%). Điều này có nghĩa là với bộ dữ liệu trong mẫu nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa thời hạn luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán. Các trường hợp biến TENURE có giá trị lớn hơn 3 phần lớn là do cách năm (không liên tục). Về các biến độc lập khác, ta thấy chỉ có biến GROW và SIZE là có ý nghĩa thống kê.
Giá trị R2 điều chỉnh trong mô hình hồi quy là 3,9%. Nguyên nhân mức độ giải thích của mô hình thấp là do biến DA đại diện cho chất lượng thông tin lợi nhuận được dùng để đo lường chất lượng kiểm toán. Trong khi đó, chất lượng kiểm toán bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố mà thời hạn luân chuyển KTV chỉ là một trong số các nhân tố đó.
Kết luận và kiến nghị
Nghiên cứu này sử dụng thước đo các khoản dồn tích tự định (DA) để đo lường chất lượng kiểm toán. Kết quả nghiên cứu cho thấy, không có bằng chứng về mối quan hệ giữa thời gian luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, kết quả thống kê mô tả cho thấy nếu cùng một KTV thì chất lượng kiểm toán sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5. Từ năm thứ 6 chất lượng kiểm toán bắt đầu giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán BCTC như sau:
Một là, theo Điều 16 Nghị định 17/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/3/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Kiểm toán độc lập thì “KTV hành nghề không được ký báo cáo kiểm toán cho một đơn vị được kiểm toán quá ba (03) năm liên tục”.
Quy định này có thể xuất phát từ yêu cầu phải gia tăng tính độc lập của các KTV nhưng điều này có thể khiến KTV phải gặp rủi ro khi phải bỏ qua những kinh nghiệm thực tế ở những năm đầu kiểm toán, đồng thời họ lại gặp khó khăn và rủi ro khác trong việc tìm hiểu một khách hàng mới. Với các bằng chứng thực nghiệm từ nghiên cứu này, Cơ quan liên quan nên xem xét nâng thời hạn tối đa phải thay đổi KTV lên 5 năm thay vì 3 năm như hiện nay.
Hai là, hội KTV hành nghề (VACPA) cần tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài, đặc biệt cần chú trọng đến những hợp đồng kiểm toán những năm đầu. Những trường hợp kiểm toán không liên tục nhưng từ năm thứ 6 trở đi cũng cần được chú trọng kiểm soát chất lượng.
Các công ty kiểm toán độc lập cần thận trọng hơn trong việc tiếp nhận khách hàng mới, đồng thời có những chính sách khuyến khích việc chia sẻ những kinh nghiệm, những hiểu biết từ những KTV tiền nhiệm cho nhóm KTV mới nhằm tăng cường sự độc lập cho KTV và cung cấp những thông tin cần thiết về khách hàng mới cho các KTV.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2014) - Luật Kiểm toán độc lập - số 67 - QH12;
2. Chính phủ (2012), Nghị định 17/2012/NĐ-CP;
3. Beatty, R. P. (1989). Auditor reputation and the pricing of initial public offerings. Accounting Review;
4. Chen, C-Y., Lin, C-J., & Lin, Y-C. (2008). Audit partner tenure, audit firm tenure and discretionary accruals: Does long auditor tenure impair earnings quality? Contemporary Accounting Research, 25, 415-445;
5. Dechow, R., Sloan, G., and Sweeney, A., P. (1995), “Detecting earnings management”. The Accounting Review, Vol.70 (2), pp. 193-225;
6. Jones, J. (1991)“Earnings Management During Import Relief Investigations.” Journal of Accounting Research 29, 193-228;
7. Sylvia Veronica Siregar, Fitriany Amarullah, Arie Wibowo and Viska Anggraita (2012), Audit Tenure, Auditor Rotation, and Audit Quality: The Case of Indonesia. Asian Journal of Business and Accounting, 55-74.