Một số giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam

Nguyễn Thị Mai Chi, Đại học Bách khoa Hà Nội

TCTC Online - Các ngân hàng thương mại ngày nay kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Ngoài các nghiệp vụ ngân hàng mang tính truyền thống như: tiết kiệm, cho vay thế chấp, cho vay cầm cố, bảo lãnh L/C, chiết khấu giấy tờ có giá, thanh toán bằng séc, chuyển khoản…các ngân hàng đã có nhiều sản phẩm mới như bao thanh toán, cho thuê tài chính, cho vay đồng tài trợ hay các nghiệp vụ tài chính phái sinh…Trong đó, các nghiệp vụ phái sinh có vai trò rất quan trọng, giúp hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xảy ra.

Các công cụ phái sinh

Kinh doanh các nghiệp vụ phái sinh sẽ mang lại cho các ngân hàng nhiều lợi ích.

Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của ngân hàng có nhiều rủi ro, kinh doanh nghiệp vụ phái sinh giúp các ngân hàng có thể bù đắp được rủi ro thông qua hoạt động bù trừ giữa các giao dịch.

Thứ hai, kinh doanh nghiệp vụ phái sinh sẽ làm sản phẩm kinh doanh của ngân hành thêm đa dạng, phong phú, từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.

Thứ ba, kinh doanh nghiệp vụ phái sinh đòi hỏi ngân hàng phải có đội ngũ nhân viên giỏi, có hệ thống công nghệ hiện đại, do đó sẽ nâng cao uy tín, thương hiệu của các ngân hàng không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.

Các nghiệp vụ phái sinh là sản phẩm tất yếu của thị trường tài chính hiện đại. Đó thực chất là các hợp đồng tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh bao gồm: giao dịch kỳ hạn (Forward), tương lai (Futures), quyền chọn (Options) và hoán đổi (Swaps). Trong đó, giao dịch kỳ hạn, hoán đổi chỉ được thực hiện trên thị trường OTC (thị trường phi tập trung); giao dịch tương lai được thực hiện trên thị trường tập trung; còn giao dịch quyền chọn có thể thực hiện trên cả hai thị trường.

-    Hợp đồng kỳ hạn: là những thỏa thuận mua hoặc bán một loại tài sản ở một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá nhất định.Đây là những thỏa thuận cá nhân (qua thị trường phi tập trung) giữa hai tổ chức tài chính hoặc giữa một tổ chức tài chính và khách hàng là công ty. Vì vậy, hợp đồng kỳ hạn không theo tiêu chuẩn của thị trường riêng biệt. Ngày giao hàng trong hợp đồng có thể là bất kỳ ngày nào thuận tiện cho hai bên. Giá trong hợp đồng kỳ hạn là giá thanh toán ở thời điểm ký kết hợp đồng, giá thanh toán được xác định để giá trị hợp đồng của hai bên bằng không. Điều này có nghĩa là không có chi phí khi mua, bán hợp đồng.

-    Hợp đồng tương lai: là một thỏa thuận để mua hoặc bán một tài sản vào một thời điểm chắc chắn trong tương lai với một mức giá xác định. Khác với hợp đồng kỳ hạn được thương lượng trực tiếp giữa hai chủ thể, không cần chuẩn hóa sản phẩm và không yêu cầu thủ tục phức tạp, hợp đồng tương lai được giao dịch trên Sở giao dịch tương lai nên việc chuẩn hóa hợp đồng là điểm quan trọng. Hai bên tham gia hợp đồng phải biết được hàng hóa chuyển giao, nơi giao hàng. Họ cũng cần biết chi tiết về giờ trao đổi, giá được niêm yết thế nào, mức dịch chuyển tối đa hàng ngày ra sao. Hợp đồng mới phải được sự chấp nhận của Ủy ban giao dịch tương lai về hàng hóa trước khi giao dịch bắt đầu. Hợp đồng tương lai là những hợp đồng được giao dịch một cách tổ chức tại sở giao dịch. Giá của hợp đồng tương lai được điều chỉnh hàng ngày theo điều kiện của thị trường để phản ánh những thay đổi của các lực lượng cung cầu trên thị trường. Do vậy, hàng ngày giữa người mua và người bán phải quyết toán những thay đổi giá trị của hợp đồng với nhau. Nếu giá trị hợp đồng giảm, người mua phải thanh toán cho người bán hợp đồng phần chênh lệch giảm và ngược lại.

Để thực hiện việc điều chỉnh giá hàng ngày, các nhà đầu tư phải duy trì khoản ký quỹ với người môi giới. Mức tổi thiểu của tiền ký quỹ ban đầu và duy trì do thị trường xác định. Nhà môi giới có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ nhiều hơn mức thị trường yêu cầu nhưng không thể yêu cầu mức thấp hơn thị trường quy định. Các mức ký quỹ được xác định bởi những biến động về giá của tài sản cơ sở, biến động càng lớn mức ký quỹ càng cao. Mức ký quỹ duy trì thường vào khoản 75% mức ký quỹ yêu cầu. Chính vì vậy, khác với các hợp đồng kỳ hạn là những hợp đồng song phương trong đó các đối tác tham gia hợp đồng có thể phải gánh chịu rủi ro tín dụng, đối với hợp đồng tương lai, rủi ro tín dụng được giảm một cách đáng kể bởi sự đảm bảo của Sở giao dịch tương lai.

-    Hợp đồng quyền chọn: Quyền chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hóa với một mức giá xác định trong một thời gian nhất định. Khác với việc sở hữu hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai, buộc phải mua hoặc bán các tài sản cơ sở trong tương lai, người sử dụng hợp đồng quyền chọn có thể lựa chọn xem có nên mua (call) hay bán (put) một tài sản cơ sở trong tương lai tại mức giá thực hiện được xác định vào ngày hôm nay. Khả năng lựa chọn có thể tạo ra các khoản thanh toán không cân xứng, nghĩa là người sở hữu hợp đồng quyền chọn có thể từ chối mua hay bán một tài sản. Trên thực tế, người sở hữu hợp đồng quyền chọn sẽ từ chối thực hiện hợp đồng nếu giá hợp đồng này bất lợi so với giá thực hiện hợp đồng và ngược lại họ sẽ thực hiện hợp đồng nếu giá hợp đồng thuận lợi.

Quyền chọn mua trao cho người nắm giữ quyền mua tài sản vào một ngày nhất định với một giá xác định. Quyền chọn bán trao cho người nẵm giữ quyền bán tài sản vào một ngày nhất định với một giá xác định. Ngày trên hợp đồng là ngày đáo hạn hay ngày thực hiện và giá trên hợp đồng là giá thực hiện.

Có bốn chiến lược cơ bản trong giao dịch quyền chọn là: mua quyền chọn mua, bán quyền chọn mua, mua quyền chọn bán và bán quyền chọn bán.

-    Hợp đồng hoán đổi: Giao dịch hoán đổi là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc trao đổi lẫn nhau các khoản thanh toán sau một khoảng thời gian nhất định trong tương lai. Hợp đồng hoán đổi bao gồm các quyền hạn và nghĩa vụ ngang nhau của các thành viên thỏa thuận về việc trao đổi lẫn nhau sau một khoản thời gian (có khả năng lặp lại) theo những điều kiện được quy định trong hợp đồng, các khoản thu nhập bằng tiền dưới dạng khối lượng ngoại tệ, khối lượng tài sản và các giá trị khác để thực hiện để thực hiện chuyển đổi đầu tư.

Khác với quyền chọn và hợp đồng tương lai, trong đó, giá cơ sở từ lần đầu do các bên ấn định theo hợp đồng, trong một hợp đồng hoán đổi, một phần thanh toán có thể thực hiện theo giá tương lai, chưa xác định khi ký hợp đồng (hoặc chưa xác định vào thời điểm đó). Hợp đồng hoán đổi mang lại cơ hội cho các thành viên giao dịch nhận được thu nhập đồng thời trên thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn. Đặc trưng của một hợp đồng hoán đổi được thể hiện ở nghĩa vụ thực hiện đổi lẫn nhau theo các điều kiện thỏa thuận. Việc thực hiện hợp đồng hoán đổi được tiến hành bằng các nghiệp vụ kinh tế trao đổi – thanh toán thích hợp. Mỗi thành viên có quyền bán quyền – nghĩa vụ của mình trong hợp đồng hoán đổi, xuất phát từ từng hợp đồng cụ thể.

Hiện trạng thị trường phái sinh ở Việt Nam

Nghiệp vụ tài chính phái sinh đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1990, chủ yếu là tại các ngân hàng có giao dịch với các ngân hàng nước ngoài. Một số ngân hàng lớn như: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Công thương (Viettinbank)…cũng đã triển khai các nghiệp vụ như: mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai…cho các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng ngoại tệ và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, các sản phẩm công cụ phái sinh hiện nay tại các ngân hàng còn ít, chưa thu hút được các doanh nghiệp sử dụng. Vì thế, thu nhập từ các công cụ phái sinh còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của ngân hàng. Đơn cử số liệu về thu nhập và lợi nhuận từ công cụ phái sinh của  3 ngân hàng thương mại hàng đầu hiện nay để có thể thấy được thực tế này.

Bảng 1: Thu nhập và lợi nhuận từ công cụ phái sinh tại một số NHTM

Năm

Chỉ tiêu

BIDV

Vietinbank

Vietcombank

TriệuVNĐ

%

TriệuVNĐ

%

TriệuVNĐ

%

2007

Tổng thu nhập

7.794.275

100

6.648.680

100

5.763.393

100

Trong đó:

 

 

 

 

 

 

Thu từ các công cụ phái sinh

19.110

0,24

4.256

0,06

0

 

Tổng lợi nhuận

2.028.246

100

1.529.085

100

3.192.119

100

Trong đó:

 

 

 

 

 

 

Dịch vụ phái sinh

8.829

0,04

-6.464

0

0

0

2008

Tổng thu nhập

7.570.430

100

8.694.253

100

10.991.219

100

Trong đó:

 

 

 

 

 

 

Thu từ các công cụ phái sinh

363.288

4,79

74.764

0,86

52.492

0,04

Tổng lợi nhuận

2.368.018

100

2.436.388

100

3.525.877

100

Trong đó:

 

 

 

 

 

 

Dịch vụ phái sinh

237.930

10,04

-120.042

0

52.492

1,4

2009

Tổng thu nhập

9.687.959

100

5.428.316

100

9.286.804

100

Trong đó:

 

 

 

 

 

 

Thu từ các công cụ phái sinh

91.272

0,94

200.587

3,70

6.420

0,06

Tổng lợi nhuận

3.605.469

100

1.678.289

100

5.004.374

100

Trong đó:

 

 

 

 

 

 

Dịch vụ phái sinh

-171.695

0

-289.517

0

-288.777

0


                        

(Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTM)

Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận của công cụ phái sinh là rất nhỏ so với tổng doanh thu và lợi nhuận của các ngân hàng. Tại BIDV, năm 2007, thu từ công cụ phái sinh là 19.110 triệu đồng, chiếm 0,24% tổng thu nhập, năm 2008 tăng lên 363.288 triệu đồng, chiếm 4,79 % tổng thu nhập nhưng đến năm 2009 chỉ đạt 91.272 triệu đồng chiếm 0.94 % tổng thu nhập; và lợi nhuận năm 2007 là 8.829 triệu đồng, chiếm 0,04% tổng lợi nhuận, năm 2008 tăng lên 237.930 triệu đồng chiếm 10,04% tổng lợi nhuận nhưng đến năm 2009 lại giảm mạnh, lỗ 171.695 triệu đồng.

Tại Vietinbank, thu nhập từ công cụ phái sinh tăng qua các năm, năm 2007 chỉ là 4.256 triệu đồng, chiếm 0,06% tổng thu nhập, đến năm 2008 đã tăng lên 74.764 triệu đồng, chiếm 0.86%, năm 2009 tăng mạnh lên 200.287 triệu đồng, chiếm 3,7% tổng thu nhập. Mặc dù có thu nhập tăng qua các năm nhưng ngân hàng lại toàn lỗ khi kinh doanh lĩnh vực này, năm 2007 lỗ 6.464 triệu đồng, năm 2008 lỗ 120.042 triệu đồng, năm 2009 lỗ 289.517 triệu đồng.

Tại Vietcombank, năm 2008 thu nhập từ công cụ phái sinh là 52.492 triệu đồng, chiếm 0,04% tổng thu nhập, năm 2009 tăng lên là 6.420 triệu đồng chiếm 0,06% tổng thu nhập. Trong đó, lợi nhuận năm 2008 là 52.492 triệu đồng, chiếm 1,4% tổng lợi nhuận, năm 2009 lại lỗ 288.777 triệu đồng.

Có thể nhận thấy, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công cụ phái sinh của các ngân hàng chưa hiệu quả. Các sản phẩm chưa đa dạng, phong phú, do đó mặc dù các ngân hàng đã không ngừng đầu tư chi phí để phát triển các sản phẩm này nhưng chưa thu hút được các doanh nghiệp tham gia. Thực tế là các doanh nghiệp hiện nay nhận thức rất ít về kỹ thuật phòng chống rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái và phòng chống bằng công cụ phái sinh lại càng xa lạ.

Do đó, các doanh nghiệp không nhiệt tình phòng ngừa rủi ro bằng các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn dẫn đến các NHTM gặp khó khăn trong việc phát triển các nghiệp vụ này. Mặt khác, vì đây là các nghiệp vụ hiện đại, phức tạp nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao, mới có thể tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ phái sinh đồng thời việc quảng bá, giới thiệu của các ngân hàng đối với doanh nghiệp còn chưa rộng rãi, làm doanh nghiệp chưa biết hoặc không mặn mà với các dịch vụ mới về công cụ phái sinh của ngân hàng.

Những yêu cầu đặt ra và một số giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam

Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đối mặt với việc cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nước ngoài, bởi các rào cản với các ngân hàng nước ngoài sẽ được dỡ bỏ vào năm nay. Các ngân hàng nước ngoài có lợi thế về vốn, về công nghệ, về kinh nghiệm phát triển các sản phẩm phái sinh hơn hẳn các ngân hàng trong nước.

Còn các ngân hàng trong nước, mặc dù có được lợi thế về mạng lưới chi nhánh giao dịch nhưng nếu không phát triển được các nghiệp vụ phái sinh đáp ứng nhu cầu của thị trường thì chắc chắn sẽ phải đối mặt với nguy cơ lớn là “thua ngay trên sân nhà”. Để có thể phát triển được nghiệp vụ phái sinh đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường hiện tại và tương lai, cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

Về phía ngân hàng:

Thứ nhất, tại các NHTM, các nghiệp vụ phái sinh hiện nay rất ít, chủ yếu là mua bán kỳ hạn, quyền chọn ngoại tệ, hoán đổi lãi suất với quy mô và mức độ thực hiện thấp. Do đó, các NHTM cần phải phát triển các nghiệp vụ phái sinh đa dạng và phong phú hơn nhằm thu hút doanh nghiệp từ chính những tiện ích mang lại từ các dịch vụ này.

Thứ hai, các NHTM cần hiện đại hóa đồng bộ công nghệ ngân hàng. Các nghiệp vụ phái sinh là những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, nên đòi hỏi các ngân hàng phải trang bị hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ mới có thể thu thập, xử lý, phân tích thông tin nhanh chóng, chính xác,  hiệu quả, từ đó mới có thể hạn chế rủi ro cho chính các ngân hàng và tư vấn được cho các khách hàng của mình.

Thứ ba, để các doanh nghiệp hiểu được lợi ích của các công cụ phái sinh và sử dụng rộng rãi các nghiệp vụ này như một công cụ để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh do biến động của thị trường, các ngân hàng cần đẩy mạnh quảng cáo, giới thiệu, tư vấn các nghiệp vụ phái sinh cho các doanh nghiệp.

Thứ tư, các ngân hàng phải nhanh chóng đào tạo được đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp trong lĩnh vực này. Chìa khóa của mọi sự thành công là yếu tố con người, các ngân hàng cần phải có đội ngũ nhân viên am hiểu những kiến thức về tài chính, pháp lý, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái sinh. Công tác đào tạo và tái đào tạo phải được tiến hành thường xuyên, liên tục; cả ở trong nước và nước ngoài; cả về lý thuyết lẫn thực hành. Có như vậy, mới giúp được đội ngũ nhân viên hiểu và triển khai được các nghiệp vụ một cách linh hoạt, tránh gây ra rủi ro cho chính các ngân hàng.

 Thứ năm, các ngân hàng cần phải tăng cường kiểm soát nội bộ. Các ngân hàng cần đảm bảo an toàn hoạt động, do đó các ngân hàng cần đánh giá rủi ro cấu trúc, quản lý hệ thống kế toán nhằm đảm bảo các quyết định được đưa ra trên cơ sở có đầy đủ thông tin về rủi ro.

Về phía Nhà nước:

Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về giao dịch phái sinh sao cho vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa phù hợp với điều kiện phát triển của thị trường Việt Nam. Các ngân hàng thương mại có kinh doanh ngoại hối đều nên được thực hiện các nghiệp vụ phái sinh đầy đủ, để có được một thị trường cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng, nhằm cung cấp các sản phẩm tiện ích nhất cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp.

Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện chế độ kế toán, quy định cụ thể về các giao dịch phái sinh.  Nhà nước cần có các hướng dẫn cụ thể quy định cách tính toán thu nhập, chi phí, cách tính giá hạch toán, cách định giá, … phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm giúp các ngân hàng thương mại thực hiện tốt việc theo dõi quản lý nghiệp vụ phái sinh trong quá trình áp dụng.

Thứ ba, Nhà nước cần phát triển sâu thị trường thị trường tài chính tiền tệ. Nhà nước cần tăng quy mô của thị trường chứng khoán, khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết và phát hành chứng khoán huy động vốn, đồng thời phát hành nhiều loại trái phiếu chính phủ với nhiều kỳ hạn đa dạng. Việc thị trường tài chính tiền tệ phát triển sẽ tạo điều kiện phát triển những thị trường mới có tổ chức như thị trường giao dịch tương lai…Từ đó, các ngân hàng có thể phát triển các nghiệp vụ phái sinh, đa dạng hóa sản phẩm, hoàn thiện hơn những biệp pháp  phòng ngừa rủi ro nói chung và rủi ro lãi suất nói riêng.