Một số giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển
Việt Nam hiện có khoảng trên 800 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 98%. Trong những năm qua, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp vào GDP, tạo công ăn việc làm, ổn định kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn gặp những khó khăn do tác động từ các yếu tố khách quan và chủ quan, ảnh hưởng đến sự phát triển, hạn chế về quy mô, mức độ đóng góp vào nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam
Xác định vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đối với nền kinh tế, trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách hỗ trợ đối tượng này phát triển. Các chính sách được ban hành và triển khai cơ bản đã theo sát yêu cầu thực tế trong ngắn hạn, trước mắt và có tính chiến lược. Cụ thể, phát huy và nâng cao hiệu quả hoạt động DNNVV, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng cho DN nói chung, nhất là đối với các DNNVV; tạo nguồn vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh; cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực quản trị DN, đào tạo nghề cho lao động; đặc biệt là, thành lập Quỹ Hỗ trợ DNNVV…
Trên cơ sở đó, các DNNVV đã phát triển mạnh mẽ, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số DN. Trong các loại hình sản xuất kinh doanh ở nước ta, hiện nay DNNVV có sức lan tỏa trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Việt Nam hiện có khoảng trên 800 nghìn DN, DNNVV chiếm tỷ trọng 98%, đóng góp tới 45% trong GDP, khu vực này cũng đóng góp khoảng trên 31% tổng số thu ngân sách nhà nước và thu hút hơn 5 triệu lao động. DNNVV đã có mặt ở hầu hết các vùng, địa phương tận dụng và khai thác tốt các nguồn lực tại chỗ. Hiện nay, DNNVV sử dụng khoảng 1/2 lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp (chiếm 49%) trong cả nước, và tại một số vùng đã sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp. Ngoài lao động, DNNVV còn sử dụng nguồn tài chính của dân cư trong vùng, nguồn nguyên liệu trong vùng để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng sự phát triển của khu vực DNNVV chưa đạt như mong muốn xét từ cả phía Nhà nước và DN, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này. Theo thống kê, trong Top 10 DN đóng thuế cao nhất, có 5 DN nhà nước (DNNN) và 5 DN vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chưa xuất hiện DN tư nhân (DNTN) nào.
Theo khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong khối các DNTN, DNNN chiếm 99%, trong đó số lượng DN siêu nhỏ và nhỏ chiếm đa số (trên 90%) trong tỷ trọng DN ở cả 3 nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ. Mặc dù, chiếm ưu thế về số lượng (chiếm hơn 96% tổng số DN) nhưng tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn của khu vực DNTN chỉ chiếm khoảng 50% tổng số tài sản cố định và đầu tư dài hạn của toàn bộ khối DN.
Bên cạnh đó, sự liên kết của các DNTN Việt Nam còn yếu, đặc biệt là có rất ít mối liên kết giữa các DN nhỏ với DN có quy mô lớn hơn. Các liên kết trong mô hình tập đoàn còn khá đơn giản, chưa triển khai được các hình thức liên kết “mềm” khác thông qua thỏa thuận, hợp tác sử dụng thương hiệu, dịch vụ, kết quả nghiên cứu đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ chung theo nguyên tắc thị trường. Lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn kinh tế và DN thuộc khu vực tư nhân mới chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực, như dịch vụ, bất động sản, các ngành, nghề thu hồi vốn nhanh...
Một nghiên cứu khác của Ban Kinh tế Trung ương và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ cho rằng, quy mô của hầu hết các DNTN Việt Nam còn nhỏ và siêu nhỏ; hiệu suất của khu vực kinh tế này còn thấp và có sự suy giảm. Chỉ số tỷ suất hoàn vốn của các DNTN rất thấp, chỉ bằng 1/5 của DN FDI và gần 1/2 của DNNN. Chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNTN bình quân chỉ đạt 4% so với 16,3% của DN FDI và 11% của DNNN. Nghiên cứu này cũng đánh giá về liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu của các DN Việt Nam ở mức 21%, trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%, Malaysia là 46%. Chi phí đầu tư cho đổi mới khoa học công nghệ của DN Việt Nam chưa đến 0,3% doanh thu, trong khi tại Ấn Độ tỷ lệ này là 5%, Hàn Quốc là 10%, Nhật Bản là 50%... Như vậy, việc nghiên cứu thực trạng phát triển của DNNVV Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp phát triển là việc làm cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
So với các quốc gia trên thế giới, DNNVV Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế gồm: Đa phần các DN này làm dịch vụ, chỉ khoảng 20% là hoạt động sản xuất; có tới 42% DN có doanh thu hàng năm dưới 1 tỷ đồng và 85% DN hoạt động chính thức có doanh thu dưới 2 tỷ đồng; số lượng DN tư nhân tuy tăng hàng năm nhưng quy mô bình quân của mỗi DN là không lớn. Ở Việt Nam, hiện có khoảng gần 100 triệu dân và có khoảng 800 nghìn DN đang hoạt động, bình quân khoảng gần 130 người dân/DN (Tỷ lệ này ở khối các nước ASEAN là trên 80 người dân/DN).
Nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của DNNVV chưa như kỳ vọng là do nhiều yếu tố, trong đó, có yếu tố xuất phát từ những vướng mắc về thể chế, chính sách, thủ tục hành chính, thiếu vốn, khó tiếp cận vốn vay, khoa học công nghệ, điều kiện đầu tư, kinh doanh, thiếu hụt lao động có kỹ năng; năng suất lao động còn thấp...
DNNVV còn khó khăn trong việc tiếp cận đất đai (các thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hồi đất thường tốn thời gian gây ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của DN; phương pháp tính giá đất, thủ tục cấp phép, thông tin quy hoạch còn gây nhiều bức xúc, cản trở tốc độ thu hồi và bàn giao đất sạch cho các nhà đầu tư; giá cho thuê đất, chi phí kinh doanh cao...). Những yếu tố này đã làm giảm khả năng cạnh tranh cũng như hạn chế khả năng tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh doanh của nhiều DN. Bên cạnh đó, nhiều DN chưa coi trọng việc đầu tư vào công nghệ do không có đủ năng lực tài chính để đầu tư vào tài sản cố định, máy móc công nghệ làm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, dẫn tới trình độ sản xuất, kỹ thuật chỉ ở mức thấp.
Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Để tiếp tục phát huy vai trò của DNNVV, khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong môi trường cạnh tranh, hội nhập hiện nay, cần quan tâm chú trọng một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, Nhà nước tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển DNNVV nhằm bảo đảm duy trì niềm tin và tăng cường đầu tư. Theo đó, cần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tăng cường cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập DN; thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Thứ hai, tiếp tục có các chính sách hỗ trợ DNNVV phù hợp với yêu cầu thực tiễn của DN cũng như môi trường kinh doanh. Theo đó, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV phải dựa trên những nền tảng pháp lý, các quy định của pháp luật quốc gia, tuân thủ các cam kết quốc tế trong các hiệp định đa phương, song phương mà Việt Nam là thành viên. Việc hỗ trợ trên nguyên tắc này sẽ đảm bảo không tạo ra những rào cản pháp lý hay sự phân biệt đối xử giữa các DN.
Thứ ba, các DNNVV cần tăng cường đầu tư và ứng dụng công nghệ trong việc lập sổ sách kế toán, khai thuế và hải quan điện tử, giao dịch ngân hàng qua internet nhằm giảm chi phí giao dịch, kết nối và chia sẻ thông tin tài chính với các tổ chức tín dụng để dần minh bạch hóa thông tin tài chính, tạo lòng tin trên thị trường. Nâng cao chất lượng, trình độ quản trị DN, quản trị rủi ro và quản lý tài chính; Tích cực tham gia các hiệp hội doanh nghiệp để tiếp cận thông tin về các chính sách, chương trình hỗ trợ đối với DNNVV của Chính phủ, Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng. Hoàn thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng của các đối tác lớn đặc biệt là khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng mang tính toàn cầu.
Thứ tư, các ngân hàng cần tăng cường tìm kiếm và tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ từ các chương trình, dự án ưu đãi của các tổ chức trong và ngoài nước để tài trợ cho các lĩnh vực kinh doanh đặc thù của các DNNVV được Chính phủ, Nhà nước chú trọng phát triển. Thiết kế các sản phẩm cho vay đặc thù phù hợp với đối tượng khách hàng là DNNVV theo từng nhóm ngành nghề để có các giải pháp đáp ứng yêu cầu khách hàng một cách linh hoạt. Đồng thời, cải tiến, đơn giản hóa quy trình cho vay, yêu cầu thông tin cung cấp phù hợp với thực tế và có tư vấn, hướng dẫn chi tiết để các DNNVV có thể dễ dàng nắm bắt và thực hiện.
Thứ năm, Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, song quy định về hỗ trợ tiếp cận vốn còn khá khiêm tốn, thiếu cơ sở triển khai trong thực tế. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu các chính sách hỗ trợ cho DN hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng cần tăng cường thực hiện hiệu quả các văn bản điều hành của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển DN; Nghị định số 34/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định số 39/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV...
Thứ sáu, thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn. Cần thực hiện các biện pháp khuyến khích sự phát triển thị trường vốn để tạo điều kiện cho DN huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, cũng như các quỹ đầu tư, giảm sự lệ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay ngân hàng. Trong đó, cần tập trung thúc đẩy sự phát triển dịch vụ định mức tín nhiệm nhằm hỗ trợ thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu, nâng cao tính công khai minh bạch, thúc đẩy huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư.
Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan: (i) Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế thông qua ban hành chế độ quản lý rủi ro đối với các DN thuộc đối tượng thanh tra/kiểm tra về thuế; tiếp tục sửa đổi quy định về hồ sơ hoàn thuế, phần mềm hỗ trợ công tác tự động xây dựng báo cáo hồ sơ hoàn thuế; nộp hồ sơ hoàn thuế qua mạng; xây dựng cơ sở dữ liệu về quản lý công tác hoàn thuế và thực hiện công khai để người được hoàn thuế biết được thông tin về tình trạng giải quyết hồ sơ hoàn thuế; (ii) Triển khai đồng bộ, rộng khắp ứng dụng công nghệ thông tin trong kê khai, nộp thuế, hoàn thuế, thanh toán tiền thuế qua di động, thanh toán qua internet; (iii) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để đảm bảo việc triển khai đầy đủ hệ thống thông quan điện tử…
Thứ tám, cần khuyến khích, hỗ trợ DNNVV đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến; hoàn thiện và bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ; phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ; áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ; kết nối DN, ý tưởng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư.
Tài liệu tham khảo:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo Phát triển bền vững khu vực doanh nghiệp tư nhân;
VCCI, Báo cáo năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2018, http://pcivietnam.org/danh-muc-du-lieu/du-lieu-pci/;
Phùng Thế Đông (2019), Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phát triển trong giai đoạn hiện nay – Tạp chí Tài chính, kỳ 1 tháng 10/2019;
Lê Thiết Lĩnh (2019), Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tiếp cận vốn tín dụng phát triển sản xuất, kinh doanh - Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 11/2019.