Năm 2023: Tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát
Năm 2022 có ý nghĩa quan trọng, khẳng định kinh tế Việt Nam trên tiến trình phục hồi bền vững và thích ứng an toàn, linh hoạt, hiệu quả với dịch bệnh COVID-19. Trong bối cảnh thế giới và trong nước có những thời cơ, thách thức đan xen, Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận khi kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt. Những kết quả đạt được trong năm 2022 là nền tảng tốt cho việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 và các năm tiếp theo.
Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đối diện với khó khăn, tiềm ẩn rủi ro suy thoái, kinh tế – xã hội Việt Nam năm 2022 vẫn giữ vững sự ổn định, các cân đối vĩ mô được đảm bảo, lạm phát trong tầm kiểm soát.
Trong quý I/2022, quý II/2022 và quý III/2022, tốc độ tăng GDP lần lượt là 5,05%; 7,72% và 13,67%; tháng 11/2022, kinh tế – xã hội tiếp tục tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Ước cả năm, tốc độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 8%, vượt mục tiêu đề ra (6-6,5%).
Những kết quả trên xuất phát từ chủ trương duy trì sự ổn định để phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo bộ, ngành, địa phương tích cực triển khai các nhiệm vụ, giải pháp để ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội.
Cụ thể, công tác quản lý, điều hành giá được chỉ đạo sát sao, hiệu quả, đạt kết quả tốt; lạm phát được kiểm soát trong bối cảnh giá cả hàng hóa trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng mạnh, áp lực lạm phát tăng cao tại nhiều nền kinh tế lớn và là đối tác thương mại của Việt Nam.
Đặc biệt, việc kiểm soát giá các hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu như xăng dầu, cước phí vận tải, vật liệu xây dựng, vật tư và sản phẩm nông nghiệp... được quan tâm. Các chính sách về thuế đã được ban hành kịp thời như: Giảm thuế giá trị gia tăng một số nhóm hàng hóa và dịch vụ từ 10% xuống 8% từ ngày 01/02/2022; giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ ngày 01/01/2022 đến hết ngày 31/12/2022; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng năm 2022; giảm thuế bảo vệ môi trường 2 đợt đối với xăng dầu.
Bình quân 11 tháng năm 2022, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,02% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,38%, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,02%). Biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực và giá xăng dầu. Chỉ số giá vàng tháng 11/2022 tăng 1,82% so với tháng trước; tăng 3,95% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 11 tháng năm 2022 tăng 5,88% so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định; mặt bằng lãi suất, tỷ giá, hạn mức tăng trưởng tín dụng được điều hành phù hợp để kiềm chế lạm phát, hướng tín dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh và các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong tình hình các nền kinh tế lớn biến động mạnh. Điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường trong và ngoài nước và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ.
Từ đầu năm 2022 (đặc biệt từ tháng 3/2022 trở lại đây), trong bối cảnh Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất, USD tăng giá trên thị trường thế giới, nhiều đồng tiền mất giá lớn so với USD, cung cầu ngoại tệ khó khăn đã gây áp lực lên thị trường ngoại tệ, tỷ giá chịu áp lực tăng mạnh. Chỉ số giá USD tháng 11/2022 tăng 2,91% so với tháng trước và tăng 8,71% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 11 tháng năm 2022 tăng 1,83% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) 11 tháng năm 2022 ước đạt 1.638,9 nghìn tỷ đồng, bằng 116,1% dự toán, tăng 17,4% so cùng kỳ năm 2021 (ngân sách trung ương đạt 114,9% dự toán; ngân sách địa phương đạt 117,4% dự toán). Trong đó, thu nội địa đạt 110,5% dự toán, tăng 13,5%; thu từ dầu thô vượt 144,6% dự toán (giá dầu bình quân khoảng 105,2 USD/thùng, tăng 45,2 USD/thùng so dự toán), tăng 77,6%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 132,4% dự toán, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm 2021.
Thu NSNN 11 tháng vượt dự toán chủ yếu do hoạt động kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi và tăng trưởng khả quan (GDP 9 tháng đã tăng 8,83%); tổng mức bán lẻ 11 tháng tăng 17,5%; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,6%, xuất khẩu tăng 13,4%, xuất siêu 10,6 tỷ USD. Bên cạnh đó, giá dầu và một số hàng hóa, nguyên liệu đầu vào tăng cao đã góp phần tăng thu từ dầu thô và từ hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong 11 tháng năm 2022, cả nước có 137,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số lao động đăng ký là 909 nghìn, tăng 30,4% về số doanh nghiệp và tăng 15,9% về số lao động so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 40,5%. Tính chung số doanh nghiệp gia nhập thị trường 11 tháng năm 2022 tăng 33,2% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN 11 tháng năm 2022 ước tính tăng 19,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam đạt 19,7 tỷ USD, tăng 15,1%, cao nhất của 11 tháng trong 5 năm qua.
Kế hoạch phát triển kinh tế năm 2023
Tại Nghị quyết số 68/2022/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023, Quốc hội dự kiến 15 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2023 gồm: Tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5%. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,4-25,8%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 5,0-6,0%.
Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt khoảng 26,2%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 68%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 27,5%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm khoảng 1-1,5%. Số bác sỹ đạt khoảng 12 bác sỹ/1 vạn dân. Số giường bệnh trên 1 vạn dân đạt khoảng 32 giường bệnh/1 vạn dân. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 93,2%. Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt khoảng 78%.
Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt khoảng 94,71%. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt khoảng 91%.
Cân đối tích lũy - tiêu dùng, quy mô GDP đạt khoảng 10,30 – 10,41 triệu tỷ đồng, tiêu dùng cuối cùng bằng khoảng 66,2% GDP, tỷ lệ tích lũy tài sản bằng khoảng 33,8% GDP. Cân đối ngân sách, dự toán thu ngân sách đạt 1.612,96 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ huy động vào ngân sách khoảng 15,7% GDP, riêng huy động từ thuế và phí đạt 13,3% GDP. Dự toán chi ngân sách đạt 2.073,46 nghìn tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm khoảng 33,6%. Bội chi NSNN 460,5 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 4,47% GDP, tăng khoảng 87,6 nghìn tỷ đồng so với dự toán năm 2022.
Cân đối xuất, nhập khẩu, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt khoảng 795 tỷ USD, tăng khoảng 8% so với năm 2022, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt khoảng 398 tỷ USD, tăng thêm 8% so với năm 2022. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2023 tiếp tục duy trì xuất siêu...
Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế nói trên, các nhóm giải pháp cần tập trung thực hiện gồm:
Tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế
Chính phủ chủ động điều hành linh hoạt, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ các công cụ chính sách tiền tệ và tài khóa, cùng với các chính sách khác nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thích ứng kịp thời với biến động thị trường quốc tế, giữ ổn định thị trường trong nước; Điều tiết tiền tệ, thanh khoản thị trường hợp lý, điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với điều kiện thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ; Duy trì ổn định thị trường tài chính, tiền tệ; kiểm soát các lĩnh vực đang tiềm ẩn nhiều rủi ro như thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản.
Chính phủ tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp; Đẩy mạnh việc xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, xử lý ngân hàng yếu kém.
Thực hiện chính sách tài khóa thận trọng, linh hoạt, chủ động bám sát diễn biến, tình hình kinh tế xã hội trong nước và quốc tế; sớm nhận diện những rủi ro phát sinh để kịp thời đề xuất các giải pháp xử lý phù hợp, phấn đấu hoàn thành dự toán ngân sách nhà nước đề ra, giảm bội chi ngân sách; Tiếp tục đổi mới chính sách và cơ cấu chi ngân sách nhà nước, đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả và chống lãng phí; Bảo đảm nợ công trong giới hạn an toàn.
Các cơ quan quản lý cần theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế, giá cả, lạm phát thế giới, phản ứng chính sách của các nền kinh tế lớn, kịp thời cảnh báo rủi ro, nhất là nguy cơ ảnh hưởng đến lạm phát trong nước, đặc biệt là đối với giá xăng, dầu, nguyên liệu sản xuất. Trên cơ sở đó, sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách để kiểm soát lạm phát, trong đó có chính sách thuế, phí đối với xăng, dầu. Công khai, minh bạch trong điều hành đối với giá điện, xăng, dầu, cũng như các hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu khác; điều tiết hài hòa lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, doanh nghiệp và nhà nước.
Bên cạnh đó, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa các chuỗi cung ứng, phấn đấu thặng dư thương mại bền vững; Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi gian lận thương mại, đầu cơ, thao túng giá, thao túng thị trường, tăng giá bất hợp lý, vi phạm pháp luật giá, nhất là đối với các nguyên vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, đầu cơ thao túng thị trường; Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để hạn chế tối đa các tác động tăng giá do yếu tố tâm lý; Triển khai quyết liệt, hiệu quả giải ngân vốn đầu tư công, 03 chương trình mục tiêu quốc gia.
Đẩy mạnh triển khai hiệu quả chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; nghiêm túc quán triệt tinh thần về tầm quan trọng và ý nghĩa của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở đó đẩy mạnh triển khai các nội dung sau trong thời gian còn lại của năm 2022 và năm 2023: Nhanh chóng quán triệt đến các cấp, các ngành về việc triển khai các chính sách đã được ban hành của chương trình, đảm bảo rõ về trình tự, thủ tục, đối tượng hỗ trợ; đẩy mạnh việc giải ngân các chính sách, đặc biệt là các chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách hỗ trợ 2% lãi suất đối với các khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, bảo đảm kịp thời, công khai, minh bạch, đúng đối tượng, tránh trục lợi chính sách. Bảo đảm nguồn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi của chương trình.
Các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi sát tình hình, đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai các chính sách đã ban hành; chủ động rà soát, đánh giá khả năng giải ngân, đề xuất báo cáo cấp có thẩm quyền phương án điều chỉnh, bổ sung nguồn lực cho chính sách khác còn dư địa để thực hiện theo yêu cầu tại Nghị quyết số 11/NQ-CP trong trường hợp cần thiết. Đối với danh mục nhiệm vụ, dự án sử dụng nguồn vốn chương trình, các bộ, cơ quan trung ương, địa phương nhanh chóng hoàn thiện các thủ tục đầu tư cần thiết; chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về mặt bằng, mỏ vật liệu, nhân công... để sớm thực hiện ngay sau khi được cấp có thẩm quyền giao kế hoạch vốn. Nếu đến năm 2023 vẫn còn hoàn thiện các thủ tục đầu tư thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chương trình. Trong quá trình triển khai, cần rà soát, đánh giá, xem xét việc áp dụng các cơ chế đặc thù đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đã được Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 để giải ngân hết kế hoạch vốn các năm 2022, 2023 được giao trong chương trình, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy trình của pháp luật. Đồng thời, các bộ, cơ quan, địa phương cần rà soát, xác định những nội dung cần điều chỉnh trong chương trình, không còn phù hợp với tình hình thực tế để kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, không để chính sách mất đi ý nghĩa thời sự.
Thực hiện tốt công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, ổn định và phát triển các loại thị trường lành mạnh, hiệu quả, bền vững, hội nhập
Tiếp tục quán triệt và cụ thể hóa kịp thời, chính xác, đầy đủ những định hướng, chủ trương của Đảng, các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là nghị quyết tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm vụ kỳ Quốc hội khóa XV; Tập trung tham mưu triển khai hiệu quả Nghị quyết về chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành.
Chủ động, tích cực đôn đốc các bộ, ngành thực hiện đảm bảo tiến độ, chất lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, nhất là các dự án luật có vai trò quan trọng để cơ bản xử lý các vướng mắc, khó khăn và tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh như: Luật Đất đai (sửa đổi); Luật Đấu thầu (sửa đổi); Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi); Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Phòng thủ dân sự...
Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát chặt chẽ việc quy định thủ tục hành chính; theo dõi sát kết quả tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của cơ quan chủ trì soạn thảo. Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; đẩy mạnh việc xử lý văn bản trái pháp luật đã được phát hiện, kết luận theo đúng quy định. Tiếp tục tổ chức triển khai các nhiệm vụ của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật bất cập, không còn phù hợp, gây khó khăn, vướng mắc khi thực hiện.
Tổ chức thực hiện hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thống nhất trong cả nước kỳ thứ 3 (2019-2023); Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu, hướng dẫn, khai thác sử dụng bộ pháp điển để đáp ứng việc tiếp cận, tìm hiểu, sử dụng pháp luật của người dân, tổ chức; Đôn đốc các bộ, ngành kịp thời xây dựng, ban hành hoặc trình ban hành các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh nhằm khắc phục triệt để tình trạng nợ ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sớm đưa các luật, pháp lệnh vào cuộc sống.
Đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật, tập trung vào các lĩnh vực được xác định là trọng tâm phát triển kinh tế-xã hội của năm 2023, phù hợp với nhiệm vụ chung của cả giai đoạn 2021-2025; Thực hiện tốt kế hoạch theo dõi tình hình thi hành luật pháp trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2023; Tiếp tục thực hiện hiệu quả, thực chất các giải pháp nhằm cải thiện điểm số và nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật, các giải pháp nhằm cải thiện điểm số, duy trì thứ hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đồng thời giải quyết tốt các tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế; kịp thời giải quyết các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại của các nhà đầu tư nước ngoài, tránh phát sinh các vụ kiện về đầu tư; phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự... Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trong đó tập trung vào những lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp, nuôi con nuôi, luật sư, công chứng...
Tiếp tục phát triển đồng bộ các loại thị trường (vốn, lao động, khoa học công nghệ, bất động sản). Đối với thị trường vốn, nhanh chóng hoàn thiện quy định sửa đổi về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, chào bán, giao dịch chứng khoán riêng lẻ (cổ phiếu, trái phiếu) tại thị trường trong nước, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ nhưng vẫn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh chính đáng; Tiếp tục có những giải pháp phát triển thị trường chứng khoán lành mạnh, minh bạch, hiệu quả; áp dụng công nghệ hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường; sớm triển khai các giải pháp để nâng hạng thị trường trong thời gian sớm nhất; nghiêm túc xử lý các trường hợp thao túng, làm giá và các hành vi vi phạm khác.
Đối với thị trường lao động, phát triển thị trường lao động đầy đủ, hiện đại, vận hành theo đúng cơ chế kinh tế thị trường, đảm bảo đồng bộ, liên thông đa tầng, đa ngành, đa lĩnh vực, đa vùng và hội nhập quốc tế. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thực hiện số hóa nhằm tăng khả năng kết nối cung – cầu lao động trên thị trường. Hoàn thiện khung pháp lý, quản lý chất lượng, hoạt động của tổ chức dịch vụ việc làm...
Đối với thị trường khoa học công nghệ, kết nối có hiệu quả các sàn giao dịch công nghệ quốc gia với các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ ở các địa phương; Tích cực hỗ trợ hình thành 03 sàn giao dịch khoa học công nghệ quốc gia: sàn TP. Hà Nội, sàn TP. Hồ Chí Minh, sàn TP. Đà Nẵng; Xây dựng cổng kết nối quốc gia về thị trường khoa học công nghệ và cơ sở dữ liệu kết quả nghiên cứu sẵn sàng chuyển giao.
Đối với thị trường bất động sản, nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) và Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) theo Nghị quyết 50/QH5 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2022; tiếp tục triển khai một số nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế; Chiến lược phát triển nhà ở Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tiếp tục thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn
Rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách; thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về đầu tư công, các nguyên tắc, tiêu chí, thứ tự ưu tiên bố trí vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng công tác xây dựng kế hoạch, đảm bảo phù hợp với nguồn lực và khả năng thực hiện của dự án; Áp dụng quy tắc hậu kiểm đối với kế hoạch đầu tư công năm 2023 của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, bảo đảm tính tuân thủ các quy định và hiệu quả đầu tư công. Có giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, sớm khắc phục các tồn tại, hạn chế để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm 2023, đặc biệt là các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm. Ưu tiên bố trí vốn cho dự án quan trọng quốc gia, chương trình, dự án phát triển hạ tầng trọng điểm có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội, tạo đột phá thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân trong và ngoài nước và bảo đảm phát triển hài hòa giữa các địa phương, vùng, miền.
Khẩn trương thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 theo đề án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng nội dung, kế hoạch và quy định của pháp luật, gắn với đổi mới quản trị theo các chuẩn mực tiên tiến, đẩy mạnh chuyển đổi số, tham gia vào chiến lược phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn theo lộ trình phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đẩy mạnh thoái vốn nhà nước theo tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước ban hành tại Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 02/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
Tiếp tục cơ cấu lại tổ chức tín dụng và đẩy mạnh xử lý nợ xấu. Triển khai đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, tập trung thực hiện phương án xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém theo kết luận của cấp có thẩm quyền. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện các vấn đề tồn tại, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng và đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị cụ thể, có biện pháp xử lý phù hợp nhằm hạn chế rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước, tăng cường quản lý nợ công. Phấn đấu hoàn thành dự toán thu năm 2023 ở mức cao nhất để đảm bảo nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về thu ngân sách nhà nước, nhất là trong một số lĩnh vực trọng yếu như: chống chuyển giá, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới phát sinh trong nền kinh tế số, chuyển đổi số, các giao dịch xuyên biên giới...; tăng cường công tác quản lý thu, chống thất thu thuế và xử lý nợ đọng thuế. Thúc đẩy chuyển đổi số, đẩy mạnh điện tử hóa trong quản lý thuế, hiện đại hóa quản lý thu ở tất cả các khâu; đồng bộ, kết nối cơ sở dữ liệu với các cơ quan quản lý nhà nước để quản lý đối với các nguồn thu từ đất đai, tài nguyên, khoáng sản...
Tiếp tục cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước gắn với các mục tiêu về cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển bền vững; nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước; triệt để tiết kiệm chi, chống lãng phí, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính bảo đảm tính bền vững, an ninh, an toàn tài chính quốc gia.
Quản lý, kiểm soát chặt chẽ bội chi, nợ công và các nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước, nợ của chính quyền địa phương. Các khoản vay mới vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chỉ sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên.
Tăng cường phát triển các nguồn lực ngoài nhà nước; Tiếp tục cơ cấu lại các ngành sản xuất và dịch vụ; Tập trung hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông; đẩy nhanh tiến độ một số công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia, có tính liên vùng và hạ tầng đô thị lớn, hạ tầng chuyển đổi số. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phong trào khởi nghiệp.
Tài liệu tham khảo:
- Quốc hội (2022), Nghị quyết số 68/2022/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022), Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 của Chính phủ ngày 10/10/2022;
- Tổng cục Thống kê (2022), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 11/2022 và 11 tháng năm 2022 của Tổng cục Thống kê.