Ngân hàng tăng tốc chuyển đổi số

Theo nhandan.vn

Quá trình số hóa hoạt động ngân hàng đang diễn ra rất nhanh tại Việt Nam. Cùng với sự thay đổi không ngừng của môi trường kinh doanh số, sức ép cạnh tranh không chỉ xảy ra giữa các ngân hàng thương mại với nhau, mà còn đến từ những nhà cung cấp dịch vụ tài chính phi truyền thống như các công ty công nghệ tài chính (Fintech), viễn thông, các hệ thống bán lẻ.

 Khách hàng giao dịch tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Ảnh: Trần Hữu
Khách hàng giao dịch tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Ảnh: Trần Hữu

Mới đây, ngày 10/12, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký ban hành Quyết định số 1977 thành lập Ban chỉ đạo và Tổ công tác chuyển đổi số ngành ngân hàng, do Thống đốc Nguyễn Thị Hồng làm Trưởng ban và hai Phó Thống đốc làm Phó Trưởng ban.

Trước đó, ngày 11/5, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng ký Quyết định số 810 phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”… Những động thái mới này cho thấy, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng đã và đang tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia.

Mạnh mẽ chuyển đổi

Trong cuộc đua chuyển đổi số, ngân hàng được đánh giá là một trong những ngành chuyển đổi số khá nhanh và toàn diện. Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng nhìn nhận, hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam đã và đang có những chuyển biến tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin một cách năng động, sáng tạo vào hoạt động kinh doanh. Thống kê từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến nay, có 95% tổ chức tín dụng đã và đang xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số.

Trong đó, thống kê riêng tại 10 ngân hàng thương mại lớn cho thấy: mức đầu tư cho chuyển đổi số ước tính lên đến 15.000 tỷ đồng mỗi năm; chi phí đầu tư nguồn lực hoạt động chuyển đổi số trung bình chiếm từ 20-30% tổng chi phí đầu tư hoạt động. “Công nghệ đã và đang mang lại những lợi ích về tự động hóa quy trình, nâng cao năng suất lao động, tăng trải nghiệm khách hàng, giảm thiểu chi phí vận hành cho các ngân hàng. Ðặc biệt, cuộc đua digital banking cũng đang diễn ra khá sôi nổi tại Việt Nam. Dịch vụ ngân hàng đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của đời sống, kết hợp với các lĩnh vực, ngành nghề để xây dựng hệ sinh thái thông minh, toàn diện” - ông Nguyễn Quốc Hùng nói.

Thực tế mấy năm nay, các ngân hàng Việt Nam đã quan tâm nhiều hơn tới việc chuyển đổi số. Nhiều ngân hàng đã có hơn 90% giao dịch là trên kênh số. Theo Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Khối khách hàng cá nhân ngân hàng VPBank Phùng Duy Khương, qua vài năm thực hiện chiến lược chuyển đổi số toàn diện, đến nay, 100% sản phẩm và dịch vụ của VPBank đều có thể được cung ứng qua các kênh số hóa để đem lại trải nghiệm khách hàng tốt hơn.

Tính đến hết tháng 9/2021, tổng lượng giao dịch số trên các kênh của VPBank đã chiếm 98%, thỏa mãn thói quen mới thích tự phục vụ, tự trải nghiệm của người dùng. Tỷ lệ khách hàng mở mới thông qua kênh ngân hàng số cũng chiếm tới 83% tổng các kênh. Bên cạnh đó, hơn 80% dịch vụ chăm sóc khách hàng đã được VPBank giải quyết và cung cấp qua kênh tổng đài và các kênh trực tuyến khác.

Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng SHB Ðỗ Quang Vinh cũng cho biết, quan điểm chuyển đổi số tại Ngân hàng SHB bắt nguồn từ chính trải nghiệm của khách hàng, dựa vào nhu cầu thực tế của khách hàng. “Trong quá trình chuyển đổi số, SHB đã áp dụng phương pháp luận: Con người và sự tương tác quan trọng hơn quy trình và công cụ; giải pháp có giá trị tốt hơn một bộ tài liệu đầy đủ; hợp tác với khách hàng quan trọng hơn là chỉ đàm phán hợp đồng với khách hàng; ứng phó và phản hồi với các thay đổi hơn là thực hiện theo kế hoạch đã lập sẵn;... Ðây chính là tiền đề để SHB triển khai chuyển đổi số thành công”-ông Ðỗ Quang Vinh nhấn mạnh.

Và cuộc đua chuyển đổi số trong hệ thống ngân hàng càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn khi trên thị trường hiện nay, không riêng các ngân hàng thương mại, mà sự hiện diện ngày càng nhiều của các công ty Fintech cũng thúc đẩy thói quen thanh toán không dùng tiền mặt của người dân. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, số lượng các Fintech tham gia cung ứng dịch vụ trên thị trường Việt Nam tăng khoảng gần 4 lần, từ 40 công ty (năm 2016) lên tới 150 công ty (năm 2020), hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau như thanh toán, chuyển tiền, cho vay, tài chính cá nhân…

Trong đó, có những Fintech hoạt động độc lập, trở thành đối thủ cạnh tranh của ngân hàng nhưng một số khác lại hợp tác với các ngân hàng truyền thống nhằm tận dụng quy mô, nguồn vốn. “Sự hợp tác giữa các ngân hàng và Fintech chắc chắn mang lợi ích cho cả hai bên và cho xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, ngân hàng hợp tác với công ty Fintech là xu hướng tất yếu”- Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietcombank Phạm Quang Dũng chia sẻ.

Ðồng thời, ông Dũng cũng cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp dịch vụ tài chính và công nghệ, tạo ra các dịch vụ, sản phẩm mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng với lợi thế tốc độ, năng lực sáng tạo, khả năng ứng dụng các công nghệ tiên tiến như điện toán đám mây (cloud computing), dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật (IoT)…

Xây dựng hệ sinh thái toàn diện

Như vậy có thể thấy, chuyển đổi số đã và đang là xu thế tất yếu của các ngân hàng. Cách mạng công nghiệp 4.0 và bối cảnh đại dịch Covid-19 càng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi các ngân hàng cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ hơn để bắt kịp và thích ứng với bối cảnh mới.

Tuy nhiên, như chia sẻ của Phó Tổng Giám đốc VietinBank Trần Công Quỳnh Lân, thì việc chuyển đổi số của toàn hệ thống còn gặp một vài rào cản khi đến nay cơ chế pháp lý hỗ trợ tiến trình này vẫn chưa đồng bộ. Ðơn cử như eKYC để mở tài khoản, nhưng để cấp chữ ký số ngân hàng vẫn yêu cầu phải gặp mặt trực tiếp-điều này cũng đồng nghĩa quy trình chuyển đổi số chưa được thực hiện 100%.

“Nếu không làm việc cấp chữ ký số trực tuyến hoàn toàn thì các giai đoạn sau đều sẽ bị gián đoạn. Vì vậy, cần sớm có cơ chế cho phép cấp chữ ký số trực tuyến, bởi nền tảng công nghệ tại Việt Nam hiện nay có thể làm được việc này từ công nghệ sinh trắc học và dữ liệu dân cư quốc gia được tích hợp trên thẻ căn cước công dân”-ông Trần Công Quỳnh Lân nêu kiến nghị.

Ông Phạm Anh Tuấn - thành viên Hội đồng quản trị, Trưởng ban Hiện đại hóa Công nghệ Vietcombank cũng cho hay, đa phần sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng tại Việt Nam hiện mới chỉ dừng lại ở từng lĩnh vực cụ thể, mang tính chất manh mún. Do vậy, để chuyển đổi số thành công, các ngân hàng bên cạnh việc xây dựng hệ sinh thái số cho riêng mình thì cũng cần cùng nhau xây dựng hệ sinh thái số chung cho cả ngành.

“Ðây là điều rất quan trọng bởi với hệ sinh thái chung, các ngân hàng có thể chia sẻ dữ liệu, chia sẻ thông tin; đặc biệt, nếu kết nối được với bộ, ban, ngành khác sẽ giúp hạn chế nhiều rủi ro cho các ngân hàng” - ông Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh.

Ðáng chú ý, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietcombank Phạm Quang Dũng cũng chia sẻ thêm, trong xu hướng ngân hàng hợp tác với Fintech, nhiều ngân hàng Việt Nam đang chủ động tìm các công ty Fintech làm đối tác phù hợp. Nhưng cùng với đó, các cơ quan quản lý và các ngân hàng cần xây dựng cơ chế khuyến khích, khuôn khổ pháp lý cho sự hợp tác này.

Ðồng quan điểm, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, các ngân hàng cần kết hợp với các công ty Fintech tạo ra hệ sinh thái chung để tận dụng thế mạnh của nhau trong việc nâng cao trải nghiệm của khách hàng.

“Xét một cách khách quan, tiến trình chuyển đổi số tại các ngân hàng Việt Nam còn thiếu tính tổng thể. Hệ sinh thái đã được thiết lập nhưng chưa đầy đủ do chưa tương thích về công nghệ kết nối, giao diện, lập trình,…”-ông Nguyễn Quốc Hùng chỉ rõ. Vì vậy, cũng theo ông Hùng, hiện hành lang pháp lý chưa theo kịp tốc độ chuyển đổi số ngân hàng nên sự phát triển của dịch vụ mới còn hạn chế nhất định. Muốn chuyển đổi số thành công cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Tiến Dũng khẳng định, kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đặt mục tiêu phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng. Ðể thực hiện mục tiêu này, thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số, phát triển hạ tầng số, kết nối, chia sẻ dữ liệu ngân hàng với dữ liệu ngành, lĩnh vực khác, hình thành các mô hình ngân hàng số, nâng cao công tác an ninh, an toàn bảo mật.