Nhìn lại kết quả và hạn chế của tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước
(Tài chính) Thực hiện Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 – 2015, thời gian qua, hoạt động tái cấu trúc các DNNN đã đạt được những kết quả nhất định, tạo cơ sở cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu đặt ra cho năm 2015 và cả giai đoạn 2011-2015.
Những kết quả đạt được
Thời gian qua, các Tập đoàn, Tổng công ty đã tập trung thực hiện tái cơ cấu 03 mục tiêu, đó là: Tái cơ cấu về tổ chức, sắp xếp lại DN; Tái cơ cấu về tài chính; và Tái cơ cấu về quản trị, lao động.
Qua 2 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của DNNN từng bước được cải thiện đáng kể, tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư vào các ngành, lĩnh vực không phải là ngành kinh doanh chính đã từng bước được khắc phục và chấn chỉnh.
Các tập đoàn, tổng công ty đã tập trung thực hiện thoái vốn đầu tư ngoài ngành, thoái vốn tại các DN đã cổ phần hóa hoạt động trong lĩnh vực không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối.
Bên cạnh đó, cơ cấu DNNN đã từng bước được sắp xếp, điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển theo lĩnh vực, ngành nghề cũng như xu hướng phát triển kinh tế - xã hội qua từng giai đoạn theo chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
Đến nay, cơ bản các DNNN đã và đang được sắp xếp để Nhà nước chỉ tập trung nắm giữ ở một số lĩnh vực như: cung ứng các dịch vụ thiết yếu, trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng, an sinh, xã hội, các sản phẩm công ích và các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế mà các thành phần kinh tế khác chưa có khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của xã hội.
Cơ chế chính sách về sắp xếp, cổ phần hóa DNNN liên tục được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng cổ phần hóa, ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản nhà nước theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các DN thực hiện.
Công tác sắp xếp, cổ phần hóa DNNN đã góp phần hoàn thiện và phát triển các yếu tố thị trường, đặc biệt là thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho DN sau khi cổ phần hoá huy động vốn, đổi mới phương thức quản lý, công nghệ, gắn kết người lao động, ổn định và phát triển trong xu thế hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Hiệu quả hoạt động của DNNN sau khi sắp xếp, cổ phần hóa từng bước được nâng cao. Việc sắp xếp, cổ phần hóa DNNN cũng tạo thêm nguồn thu cho Nhà nước để thực hiện đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận diện những hạn chế và nguyên nhân
Báo cáo mới đây của Bộ Tài chính đã chỉ ra những hạn chế về tình hình triển khai tái cơ cấu DNNN, cụ thể:
Thứ nhất, về cơ chế chính sách. DNNN hoạt động chung với DN thuộc thành phần kinh tế khác theo quy định tại Luật DN, Luật Đầu tư nhưng chưa giải quyết được các vấn đề đặc thù đặt ra liên quan đến sự tồn tại và vận hành của các DNNN. Việc sử dụng các công cụ quản lý nhà nước đối với DNNN bằng các văn bản dưới luật dẫn đến hiệu lực thực thi chưa cao, làm giảm hiệu quả của quản lý nhà nước đối với DNNN nói chung và gây khó khăn cho hoạt động kiểm soát, giám sát của Nhà nước.
Ngoài ra, cơ chế, chính sách về quản lý DNNN chưa phân tách giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ công ích, chưa đảm bảo cho các DNNN được giao hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực có mức sinh lời thấp mà khu vực kinh tế tư nhân không muốn hoặc không đủ sức tham gia nhưng cần thiết cho nền kinh tế. Một số cơ chế chính sách chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời (ví dụ như quy định về giao, bán DNNN).
Bên cạnh đó, việc xác định trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra sai phạm cũng như việc xử lý các hành vi vi phạm về giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động đối với DNNN chưa được thực hiện đầy đủ và triệt để. Vì vậy, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước đối với DNNN nói chung cũng như hoạt động giám sát của nhà nước đối với việc sử dụng các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước đầu tư tại DNNN còn hạn chế.
Thứ hai, việc triển khai xây dựng, thẩm định, phê duyệt Đề án tái cơ cấu của một số DN còn chậm. Đến thời điểm hiện nay, có 90/108 Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước đã được phê duyệt Đề án tái cơ cấu, còn 18/108 Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước chưa được phê duyệt Đề án tái cơ cấu.
Thứ ba, một số Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển khai Đề án tái cơ cấu cũng như phương án sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn. Chưa kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nên cũng dẫn đến chậm tiến độ.
Thứ tư, kết quả sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn diễn ra còn chậm so với yêu cầu đặt ra mặc dù kết quả thực hiện năm 2014 có sự chuyển biến mạnh so với các năm gần đây. Việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành tại hầu hết các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước còn chậm, đặc biệt là việc thoái vốn của các DN phải thực hiện theo nguyên tắc bảo toàn vốn.
Thứ năm, một số Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo về tình hình triển khai Đề án tái cơ cấu, phương án sắp xếp, cổ phần hóa DN.
Theo Bộ Tài chính, tình trạng này xuất phát từ một số nguyên nhân như:
Một là, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và những khó khăn của kinh tế trong nước, ảnh hưởng đến thị trường tài chính, chứng khoán và kế hoạch bán cổ phần ra công chúng của các DN cổ phần hóa cũng như thoái vốn đầu tư.
Hai là, đối tượng sắp xếp, cổ phần hóa hiện nay hầu hết là các DN có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài chính phức tạp nên cần có nhiều thời gian chuẩn bị, xử lý. Mặt khác, việc thực hiện cổ phần hóa, tái cơ cấu và thoái vốn nhà nước đối với các DN có quy mô vốn lớn cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và năng lực quản trị, đầu tư tốt.
Ba là, nhận thức của một số bộ phận cán bộ ở các cấp, các ngành và các DN về chủ trương tái cơ cấu DN tuy đã có chuyển biến nhưng chưa hiểu đúng ý nghĩa quan trọng của việc tái cơ cấu DN đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, một số Bộ, ngành có liên quan chưa có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời trong việc xử lý những khó khăn, vướng mắc của DN trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, tái cơ cấu.