Phát triển bền vững kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra các sản phẩm ngày càng nhiều về số lượng và tốt về chất lượng, giúp cải thiện cuộc sống của con người. Tuy nhiên, mặt trái của nó là những hệ lụy nghiêm trọng về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Trong bối cảnh nền kinh tế yêu cầu sự phục hồi, kết hợp thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, viêc phát triển của “kinh tế tuần hoàn” được đề cao, đặc biệt với các mô hình khởi nghiệp và kinh doanh bền vững.

Đặt vấn đề
Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là một mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Nếu mô hình kinh tế truyền thống chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và loại bỏ sau tiêu thụ, dẫn đến việc tạo ra một lượng phế thải khổng lồ thì mô hình KTTH chú trọng việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra phế thải.
Việc chuyển đổi sang nền KTTH là một cơ hội lớn để phát triển bền vững, không chỉ đạt mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường, mà còn để ứng phó với biến đổi khí hậu. Sự tăng trưởng kinh tế trên toàn cầu đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng bên cạnh đó là sự thiếu hụt về nguồn nguyên liệu đầu vào và ô nhiễm môi trường ngày càng tăng. Để giải quyết những vấn đề trên, nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang hướng đến phát triển nền KTTH để đạt được sự phát triển bền vững cho các thế hệ tương lai.
Tổng quan về kinh tế tuần hoàn
Thuật ngữ KTTH đã ra đời từ cuối những năm 1970 (MacArthur, 2013), nguồn gốc của thuật ngữ là ở châu Âu và gần đây, được rất nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Theo đó, KTTH là mô hình kinh tế mà các hoạt động thiết kế, sản xuất với mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ các ảnh hưởng tiêu cực lên môi trường xung quanh (Potting và cộng sự, 2017). Yuan và cộng sự (2008) cho rằng, cốt lõi của nền KTTH là chu trình luân chuyển khép kín của nguyên liệu ở khâu đầu vào và chất thải ở đầu ra. Các hệ thống tuần hoàn áp dụng quy trình tái sử dụng thông qua chia sẻ, sửa chữa, tân trang, tái sản xuất và tái chế nhằm tạo ra chu trình khép kín trong việc sử dụng tài nguyên, giảm tối thiểu số lượng tài nguyên sử dụng ở khâu đầu vào và số lượng phế thải tạo ra, cũng như giảm khả năng gây ô nhiễm môi trường và chất thải.
Đây là mô hình kinh tế đã được thực hiện tại nhiều nước trên thế giới nhằm hướng đến sự phát triển bền vững trong tương lai, vì nó đạt được 3 mục tiêu: (i) Ứng phó với sự cạn kiệt tài nguyên ở khâu đầu vào; (ii) Khắc phục vấn nạn ô nhiễm môi trường ở đầu ra; (iii) Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, mô hình KTTH còn đem đến nhiều lợi ích cho các quốc gia như tiết kiệm chi phí, giảm sự biến động về giá cả, rủi ro từ các nhà cung cấp, phát huy tính đổi mới, sáng tạo thông qua các sản phẩm thay thế. Theo Cơ quan phát triển Liên hiệp quốc, đến năm 2030, lợi ích của nền KTTH có thể mang về 4,5 nghìn tỷ USD và hỗ trợ 10/17 chỉ tiêu về mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc
Nói một cách dễ hiểu, mô hình kinh tế truyền thống chỉ quan tâm đến khai thác tài nguyên, sản xuất rồi vứt bỏ sau tiêu dùng, gây ra một lượng phế thải lớn. Trong khi đó, mô hình KTTH lại chú trọng việc quản lý, tái tạo tài nguyên theo một chu trình khép kín nhằm giảm lượng phế thải tạo ra. Nếu vận dụng triệt để tư duy tuần hoàn trong quá trình thiết kế, sản xuất và tái chế sản phẩm thì nền KTTH sẽ mở ra cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp toàn cầu, cùng với đó là hàng trăm triệu việc làm mới được tạo ra.
Trên thế giới, đã có một số tập đoàn lớn bắt đầu hoạt động theo mô hình KTTH. Ví dụ như IKEA (tập đoàn bán lẻ đồ nội thất lớn nhất thế giới) cam kết ứng dụng hoàn toàn mô hình KTTH vào năm 2030; Lego (tập đoàn nổi tiếng với những bộ sản phẩm lắp ghép đồ chơi) đã bắt đầu triển khai kế hoạch xanh hóa hệ sinh thái với bộ lắp ghép đầu tiên sử dụng bằng nhựa thực vật; Carlsberg (Công ty sản xuất rượu bia của Đan Mạch) cải thiện giải pháp đóng gói giảm dùng nhựa. Tại Schneider Electric (Pháp), các hoạt động KTTH chiếm 12% doanh thu và giúp tiết kiệm khoảng 100 nghìn tấn tài nguyên từ năm 2018 đến năm 2020.
Tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 76/QĐ-TTg ngày 11/01/2016 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó, có đề cập đến chính sách khuyến khích áp dụng mô hình KTTH trong sản xuất, tiêu dùng hướng đến mô hình kinh doanh, kinh tế phi phát thải, tầm nhìn đến năm 2030.
Tuy nhiên, đến nay triển khai trong thực tế cũng còn hạn chế. Ngày 24/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 889/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030. Theo đó, sản xuất và tiêu dùng bền vững nhằm phát triển kinh tế hiệu quả; bảo vệ môi trường, xóa đói, giảm nghèo và tái cơ cấu nền kinh tế; thúc đẩy nền KTTH và phát triển bền vững.
Hiện nay, Việt Nam đã tồn tại một vài mô hình kinh tế mới hướng đến gần hơn với KTTH. Chẳng hạn như mô hình chế biến phụ phẩm thủy sản (đầu tôm, vỏ tôm) sản xuất ra SSE, Chitosan; mô hình khu công nghiệp sinh thái tại Cần Thơ, Đà Nẵng, Ninh Bình; sáng kiến tái chế nắp bia Tiger thành sắt làm cầu tại Tiền Giang; Heineken Việt Nam với những sáng kiến tái sử dụng phế thải hoặc phụ phẩm nhằm giảm phát thải ra môi trường; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam khởi xướng sáng kiến không thải rác ra thiên nhiên, mô hình chế biến phụ phẩm thủy sản, liên minh tái chế bao bì Việt Nam (Hà Văn Thắng, 2020). Các điển hình này khi được tổng kết, đánh giá sẽ góp phần bổ sung và hoàn thiện về KTTH cho nước ta trong thời gian sắp tới.
Kinh tế tuần hoàn và sự phát triển bền vững
Cách tiếp cận của KTTH giúp các nền kinh tế giải quyết được vấn đề nan giải giữa phát triển kinh tế và tác hại đến ô nhiễm môi trường (Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc UNEP, 2011a). Theo đó, phát triển kinh tế một mặt giảm phụ thuộc vào tài nguyên và hạn chế phát thải, mặt khác, các mô hình KTTH còn mang lại lợi ích to lớn về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Thật vậy, theo mô hình ước tính của tổ chức Accenture Strategy, KTTH có thể tạo ra lợi ích 4,5 nghìn tỷ USD ở quy mô toàn cầu từ 2015 đến 2030 (Lacy và Rutqvist, 2015). Riêng tại châu Âu, KTTH có thể đem lại 600 tỷ EUR lợi ích ròng hằng năm, tạo ra 580.000 việc làm mới và đồng thời, giúp giảm một lượng rất lớn rác thải khí nhà kính của khu vực này (Within, 2015). Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, KTTH là con đường tất yếu phải thực hiện nhằm xây dựng một nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững trong tương lai.
Nghiên cứu của Geissdoerfer và cộng sự (2017) cũng cho thấy, tính bền vững là sự kết hợp cân bằng giữa kết quả hoạt động kinh tế, hòa nhập xã hội và khả năng chống chịu với môi trường, vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, nền KTTH được xem như một điều kiện nền tảng cho sự phát triển bền vững và có sự tương quan thuận giữa hai yếu tố này. Điều đó được thể hiện thông qua tám loại liên hệ giữa tính bền vững và KTTH.
Bên cạnh đó, Hannon và cộng sự (2016) cũng chỉ ra rằng, để đạt mục tiêu phát triển bền vững thì các doanh nghiệp phải sản xuất được sản phẩm phù hợp với nền KTTH. Theo đó, các doanh nghiệp phải thiết kế được sản phẩm có lợi cho việc tái sử dụng, sửa chữa và tái chế. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần có các quy trình và hệ thống để hỗ trợ khách hàng khi sản phẩm bị lỗi, hư hỏng hoặc không còn mang lại sự hài lòng cho khách hàng.
Cơ hội phát triển bền vững kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
Việt Nam đang là một quốc gia có tốc độ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế cao, đặt biệt là tham gia vào các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Hầu hết các hiệp định này đều có các quy định, thỏa thuận về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phải tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải chất thải, khí thải. Đây là tiền đề để thúc đẩy Việt Nam tăng tốc chuyển đổi sang mô hình KTTH.
Áp dụng mô hình KTTH, Việt Nam có thuận lợi trong việc học tập kinh nghiệm thực tiễn về phát triển mô hình kinh tế của các quốc gia phát triển trên thế giới, tận dụng các cơ hội hợp tác về tiếp nhận chuyển giao các công nghệ về thiết kế, chế tạo, công nghệ thông tin hiện đại. Hiện nay, Việt Nam đã có một số mô hình tiếp cận của kinh tế tuần hoàn như mô hình thu gom tái chế sắt vụn, thu gom tái chế giấy…; mô hình sản xuất sạch hơn trong sản xuất công nghiệp quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Cùng với lợi thế này, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách về chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường tái chế, tái sử dụng. Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững.
Trong khi đó, mô hình KTTH có thể đáp ứng được mục tiêu trên trong chủ trương chính sách của Nhà nước. Cùng với đó, các chính sách khuyến khích và tạo cơ chế cho kinh tế tư nhân phát triển trong bối cảnh thị trường cạnh tranh sẽ có nhiều cơ hội cho đầu tư của khu vực tư nhân vào thực hiện phát triển KTTH trong thời gian tới.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội, việc nghiên cứu đẩy mạnh đổi mới công nghệ, chuyển từ thế giới thực sang thế giới số sẽ là cơ hội lớn để thực hiện phát triển KTTH, mang lại hiệu quả tăng trưởng cao hơn so với cách thức tăng trưởng trước đây. Đây là động lực và là cơ hội để Việt Nam đẩy nhanh phát triển nền KTTH.
Các giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Để thúc đẩy phát triển KTTH nhằm góp phần phát triển bền vững, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật ban hành các quy định, tiêu chuẩn phát triển KTTH phù hợp với xu thế mới trong khu vực và trên thế giới. Sử dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, công cụ thuế... nhằm hạn chế việc sử dụng quá mức tài nguyên, hạn chế rác thải trong quá trình sản xuất. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào hiệu suất sử dụng các yếu tố đầu vào vốn và lao động, tăng trưởng kinh tế bền vững gắn với sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.
Hai là, khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạch định chiến lược sản xuất, kinh doanh một cách bền vững, ứng dụng các mô hình KTTH, sản xuất, kinh doanh gắn liền với bảo vệ môi trường. Quy định chặt chẽ về trách nhiệm của doanh nghiệp với chất thải do doanh nghiệp tạo ra.
Ba là, xây dựng cơ sở dữ liệu về KTTH gắn với chuyển đổi kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thúc đẩy hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội trong việc phát triển KTTH ở Việt Nam, trong đó Chính phủ đóng vai trò dẫn dắt, kiến tạo.
Thứ tư, thực hiện kinh tế tuần hoàn cần gắn liền với phát triển công nghệ, kinh tế số và Cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ năm, để mở rộng nền kinh tế tuần hoàn, các nhà sản xuất cần phải xác định rõ đâu là ưu tiên hàng đầu của DN. Thay vì sản xuất sản phẩm càng nhanh, càng rẻ càng tốt, thì độ bền của sản phẩm và quy trình sản xuất bền vững mới là yếu tố then chốt. Sản phẩm cần được thiết kế sao cho dễ dàng tái chế nếu muốn chúng không phải kết thúc số phận ở các bãi chôn rác.
Thứ sáu, xây dựng Chiến lược truyền thông về kinh tế tuần hoàn nhằm nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất và công chúng về trách nhiệm của họ đối với các sản phẩm trong suốt vòng đời của chúng. Cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân về việc phân loại rác thải tại nguồn, tạo điều kiện cho công tác thu gom, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế được thuận lợi và dễ dàng hơn.
Tài liệu tham khảo:
- Chính phủ (2015), Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất thải rắn;
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2017: chuyên đề quản lý chất thải rắn. NXB Tài nguyên và Môi trường;
- Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (2020), Nghiên cứu, đánh giá, đề xuất các mô hình phát triển nền kinh tế tuần hoàn phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu”.