Phát triển kinh tế chia sẻ ở việt nam trong bối cảnh chuyển đổi số
Việt Nam đang trong quá trình phát triển công nghệ số hóa, loại hình kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ tuy chưa phát triển mạnh như ở nhiều nước nhưng có nhiều tiềm năng để phát triển; một số dự án khởi nghiệp trong thời gian qua đã tự tin đưa ra và phát triển các ứng dụng nền kinh tế chia sẻ; hợp tác với các đơn vị khác để phát triển mô hình. Bài viết này chỉ rõ thực trạng phát triển kinh tế chia sẻ tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, qua đó đề xuất một số giải pháp quan trọng để thúc đẩy mô hình kinh tế này ngày càng lớn mạnh.
Tổng quan về kinh tế chia sẻ
Kinh tế chia sẻ (KTCS) là một thuật ngữ được bàn luận nhiều trên các diễn đàn thương mại điện tử ở Việt Nam gần đây. Thuật ngữ này được manh nha vào năm 1995 tại Mỹ với mô hình ban đầu có tính chất "chia sẻ ngang hàng" nhưng không rõ rệt. Mô hình kinh doanh này thực sự phát triển mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng năm 2008, khiến người dân buộc phải thay đổi cách tiêu dùng để thích ứng với bối cảnh khó khăn.
Mô hình KTCS khởi đầu bằng dịch vụ website thông tin cho thuê quảng cáo, người tìm việc, việc tìm người... mô hình này giúp nhiều người kiếm được việc làm, kiếm được tiền quảng cáo. Việc chia sẻ những tài nguyên sẵn có cùng với sự hỗ trợ của các ứng dụng công nghệ đã đem lại cho nhà cung ứng dịch vụ, người cho thuê và sử dụng tài nguyên nhiều lợi ích và khoản lợi nhuận khổng lồ. Vì vậy, mô hình KTCS đã nhanh chóng phát triển vượt ra khỏi biên giới nước Mỹ, lan rộng khắp châu Âu và toàn thế giới.
Mô hình KTCS có đặc điểm cơ bản là sử dụng các ứng dụng công nghệ số để cung cấp thông tin cho các cá nhân và tổ chức. Để chia sẻ các nguồn lực, hàng hóa và dịch vụ mới cũng như các ngành mới trong nền KTCS cần ba yếu tố cơ bản sau: (1) Hành vi của khách hàng đối với nhiều hàng hóa và dịch vụ thay đổi từ sở hữu đến chia sẻ; (2) Các mạng xã hội trực tuyến và thị trường điện tử dễ dàng liên kết với người tiêu dùng; (3) Các thiết bị di động và dịch vụ điện tử làm cho việc sử dụng hàng hóa được chia sẻ và các dịch vụ thuận tiện hơn.
Theo phương pháp phân loại dựa trên hình thức người sở hữu tài sản và người quyết định giá của Judith Wallenstein và Urvesh Shelat, mô hình KTCS được chia thành 3 loại chính là: (1) Mô hình nền tảng tập trung (đơn vị cung cấp nền tảng vừa sở hữu tài sản, vừa quyết định giá thành dịch vụ); (2) Mô hình nền tảng phi tập trung (đơn vị cung cấp nền tảng chỉ tạo ra môi trường kết nối, người cung cấp dịch vụ là người sở hữu tài sản và cũng là người quyết định giá thành dịch vụ); (3) Mô hình nền tảng hỗn hợp (chủ tài sản cung cấp dịch vụ với giá do nền tảng đưa ra và nền tảng cũng có một phần vai trò trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm được cung ứng ra ngoài thị truờng).
Đối tượng tham gia mô hình KTCS rất đa dạng và phong phú. Đó có thể là nguời sử dụng cá nhân, doanh nghiệp phi lợi nhuận, doanh nghiệp vì lợi nhuận, cộng đồng địa phương hoặc khu vực công. KTCS đem lại cho người tiêu dùng cơ hội được tiếp cận với những dịch vụ, tài sản mà họ không thể sở hữu cũng như giúp nâng cao phúc lợi xã hội; góp phần tiết kiệm chi phí, phát triển kinh tế bền vững và giảm những tác động tiêu cực đến môi trường... Do đó, KTCS đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền kinh tế toàn cầu.
Phát triển kinh tế chia sẻ tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
Thành tựu của kinh tế chia sẻ tại Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trong khu vực ASEAN cho phép thí điểm mô hình kinh doanh ứng dụng công nghệ kết nối vận tải cho Uber và Grab, bắt đầu từ năm 2014. Tuy nhiên, sau 4 năm hoạt động, đến tháng 4/2018, Uber đã rút khỏi thị trường Đông Nam Á và đổi lấy 27,5% cổ phần của Grab.
Ngay sau khi Uber rút khỏi thị trường, Việt Nam đã chứng kiến một sự phát triển vượt bậc của KTCS với nhiều dịch vụ ứng dụng công nghệ số như dịch vụ chia sẻ phòng (Airbnb); dịch vụ du lịch (Triip.me); dịch vụ sửa chữa điện tử, điện lạnh, xây dựng (Rada); dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ cho vay ngang hàng (Huydong.com, tima.vn, lendbiz.vn)... Đối với lĩnh vực dịch vụ vận tải trực tuyến, theo số liệu thống kê của Sở Giao thông Vận tải TP. Hồ Chí Minh, đến năm 2023, có tới 75.000 xe hợp đồng điện từ dưới 9 chỗ ngồi đã được cấp phù hiệu và có đến 24.000 chiếc đang tham gia mạng lưới của Uber và Grab. Trong khi đó, số xe taxi truyền thống chỉ bằng 46% so với số xe tham gia mạng lưới của Uber và Grab. Tại Hà Nội, tính đến tháng 12/2023, GrabTaxi có 31.474 xe tham gia thí điểm trên địa bàn, chiếm 90,67% số lượng xe được cấp phép hoạt động trên địa bàn toàn Thành phố. Ngoài Grab, hiện nay còn khoảng 10 hãng taxi khác đã tham gia cung cấp ứng dụng đặt xe qua mạng, trong đó có cả các hãng taxi lớn như Vinasun, Mai Linh.
Trong lĩnh vực lưu trú du lịch, đến tháng 1/2023 đã huy động được khoảng 28.230 cơ sở lưu trú tham gia mô hình Airbnb (mô hình kinh doanh kết nối người cần thuê nhà, đặt phòng nghỉ với những người có phòng cho thuê trên khắp thế giới thông qua ứng dụng di động) và còn nhiều cơ sở kinh doanh chia sẻ phòng ở, phòng làm việc đăng ký ở các ứng dụng khác. Đối với loại hình KTCS kết hợp văn phòng - khách sạn, theo số liệu thống kê các dự án bất động sản do Bộ Xây dựng thẩm định thiết kế cơ sở, từ năm 2015 đến hết năm 2023 có khoảng trên 58.000 căn hộ Officetel đã được đầu tư xây dựng thuộc trên 130 dự án, trong đó có 60 dự án với trên 17.000 căn officetel và trên 70 dự án với khoảng trên 41.000 căn Condotel. Ngoài ra, còn hàng chục nghìn căn Condotel, Officetel đã được đầu tư xây dựng tại các dự án đầu tư do các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thẩm định thiết kế cơ sở theo thẩm quyền. Tính riêng năm 2023, tổng số căn hộ Officetel tại các dự án được Bộ Xây dựng thẩm định là 702 căn.
Trong chưa đầy 4 năm kể từ khi manh nha xuất hiện tại Việt Nam, số lượng căn hộ/phòng đăng ký cho thuê trên hệ thống Airbnb của Việt Nam đã tăng gấp hơn 40 lần, từ 1.000 trong năm 2015 lên tới hơn 40.000 đầu năm 2023. Hiện nay, có khoảng 18.230 chủ nhà cho thuê trên nền tảng Airbnb. Doanh thu trung bình hàng tháng của chủ nhà ở TP. Hồ Chí Minh là hơn 11 triệu đồng mùa cao điểm, hơn 8 triệu đồng mùa thấp điểm, tương tự với Hà Nội là gần 7 triệu đồng và hơn 5 triệu đồng. Những số liệu nêu trên cho thấy Airbnb không còn đơn thuần là kênh gia tăng thu nhập cho chủ nhà có phòng nhàn rỗi mà đã trở thành sản phẩm kinh doanh du lịch bằng hình thức đầu tư bất động sản. Trên thực tế, xuất hiện không ít nhà đầu tư tự bỏ vốn thuê lại các căn hộ, phòng trống, trang bị cơ sở vật chất để kinh doanh bằng mô hình Airbnb; tạo ra sự cạnh tranh với hoạt động kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn truyền thống.
Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, số lượng các công ty Fintech tham gia cung ứng dịch vụ trên thị trường Việt Nam đã tăng gấp 04 lần từ khoảng 40 Công ty cuối năm 2016 lên tới 150 Công ty vào đầu năm 2024, trong đó có khoảng 100 công ty đang hoạt động cho vay ngang hàng. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng rất quan tâm đến thị trường cho vay tiêu dùng của Việt Nam, trong số khoảng 100 công ty cho vay ngang hàng đã đi vào hoạt động chính thức và đang trong giai đoạn thử nghiệm ở Việt Nam, phần lớn là các công ty của nhà đầu tư nước ngoài (Tima, Trust Circle, Lendomo, Wecash, Interloan…). Trong đó, có một số công ty cho vay ngang hàng có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nga, Singapore, Indonesia…
Bất cập trong hoạt động của kinh tế chia sẻ ở Việt Nam
Bên cạnh những mặt tích cực, mô hình KTCS tại Việt Nam hiện nay cũng bộc lộ những hạn chế khiến các cơ quan quản lý nhà nước khá lúng túng trong việc xác định bản chất và cách thức vận hành, quản lý mô hình kinh tế mới này. Nhìn chung, hầu hết văn bản pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể liên quan đến KTCS.
Một số bất cập, hạn chế của mô hình KTCS có thể kể đến như sau: Thiếu chính sách đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa kinh tế truyền thống và KTCS. Điều kiện kinh doanh của mô hình KTCS được cho là thấp hơn so với quy định và điều kiện trong mô hình kinh tế truyền thống, dẫn đến các cáo buộc cạnh tranh không công bằng. Sự nở rộ của các dịch vụ theo mô hình KTCS tại Việt Nam đã xuất hiện những mối lo ngại về sự cạnh tranh không bình đẳng (do thiếu hành lang pháp lý) vì tính ưu việt của mô hình KTCS sẽ tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình truyền thống. Xung đột lợi ích giữa doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình KTCS và doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức truyền thống sẽ xảy ra. Hầu hết xung đột hết sức gay gắt nếu như không có những chính sách phù hợp của chính quyền với vai trò “trọng tài” giải quyết. Khi chưa có các chính sách đồng bộ, vấn đề cạnh tranh không công bằng với doanh nghiệp truyền thống là một rủi ro lớn cần giải quyết.
Bên cạnh đó, thiếu các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ để bảo vệ người tiêu dùng. Cần xác định rõ hơn nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử có liên quan đến KTCS. KTCS tiềm ẩn những rủi ro mà nhà quản lý cần phải quan tâm để đảm bảo lợi ích của cả người mua và người bán. Mặc dù, các bên có thông tin về nhau đầy đủ hơn, nhưng việc kiểm chứng các thông tin và tiếp xúc trực tiếp với nhau lại ít hơn nên cũng tiềm ẩn rủi ro lớn hơn nếu như không được khắc phục bằng những quy định cụ thể và hiệu quả. Vấn đề bảo hiểm, an toàn cho các bên bao gồm cả người cung cấp dịch vụ và người dùng/người sử dụng dịch vụ hay khách hàng cũng đặt ra gay gắt hơn.
Giải pháp phát triển kinh tế chia sẻ ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
Từ thực trạng phát triển mô hình KTCS ở Việt Nam nêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình phát triển của mô hình kinh tế này trong bối cảnh chuyển đổi số ở nước ta.
Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách để hoạt động của KTCS được kiểm soát chặt chẽ. Pháp luật về đăng ký kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ khai báo thông tin, nghĩa vụ đáp ứng các điều kiện kinh doanh chuyên ngành, nghĩa vụ về thực hiện chính sách bảo hiểm cần được hoàn thiện. Đặc biệt, quy định rõ trách nhiệm giữa các bên trong KTCS, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý đối với mô hình kinh doanh KTCS.
Thứ hai, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các hoạt động kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống. Mô hình KTCS chắc chắn đe dọa lợi ích và sự tồn tại của doanh nghiệp trong mô hình kinh tế truyền thống. Điều này đòi hỏi quản lý nhà nước phải cùng đồng hành với doanh nghiệp, bên sở hữu nguồn lực chia sẻ và bên sử dụng nguồn lực để hạn chế các tác động không mong muốn, đồng thời phát huy lợi ích của mô hình KTCS đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy Nhà nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Để khuyến khích và quản lý sự phát triển các hoạt động KTCS, cần nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước; đổi mới quản lý nhà nước theo hướng các bộ, ngành tăng cường sự phối hợp trong công tác điều hành, quản lý và chia sẻ thông tin. Có quy chuẩn chung về thu thập xử lý dữ liệu để có thể kết nối, lưu trữ, phân tích thông tin làm cơ sở đưa ra các chính sách phù hợp trong bối cảnh công nghệ xóa mờ ranh giới giữa các lĩnh vực, ngành nghề. Thúc đẩy xây dựng Chính phủ điện tử giai đoạn 2020 - 2025; thực hiện xây dựng thí điểm mô hình thành phố chia sẻ như mô hình thành phố Seoul (Hàn Quốc).
Tài liệu tham khảo:
- Đồng Văn Phường (2019), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự hiện hữu của kinh tế chia sẻ”, Tạp chí Cộng sản. 2019, Số 3, tr. 73-84;
- Hà Quang Thanh (2020), “Nhận thức về kinh tế chia sẻ và một số giải pháp áp dụng ở Việt Nam”;
- Hoàng Văn Cương (2020), Kinh tế chia sẻ: thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam điện tử, 2020;
- Lê Thị Thu Thủy, Nguyễn Hồng Quân (2020), Khía cạnh pháp lý đối với mô hình Kinh tế chia sẻ: Nghiên cứu thực tiễn qua mô hình chia sẻ phòng lưu trú Airbnb, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 278 tháng 8/2020;
- Nguyễn Phan Anh (2016), Mô hình kinh tế chia sẻ và gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Tài chính tháng 7/2016 (637);
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm thông tin - tư liệu. Chuyên đề 7: Thực trạng kinh tế chia sẻ ở Việt Nam. Kiến nghị giải pháp quản lý nhà nước;
- Trần Thị Hằng (2017), Phát triển nguồn nhân lực kế toán Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, trường Đại học Quy Nhơn, tháng 10/2017, 121-126.