Phát triển nhanh, bền vững ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra


Phát triển bền vững (PTBV) là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhận thức sâu sắc vai trò của PTBV trong bối cảnh hội nhập, từ nhiều năm qua, Việt Nam luôn bám sát các mục tiêu, nguyên tắc chung của PTBV để có chủ trương, hành động thiết thực và chiến lược cụ thể cho việc phát triển nhanh, bền vững...

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Khái quát về phát triển bền vững

Khái niệm về PTBV dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về PTBV bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội.

PTBV bao gồm 4 nội dung chính: Tăng trưởng kinh tế; Bảo đảm công bằng xã hội; Bảo vệ môi trường; Tôn trọng các quyền con người. Theo các chuyên gia kinh tế, PTBV phải đồng thời đạt được 3 tiêu chí: PTBV về kinh tế; PTBV về xã hội; PTBV về môi trường. Cụ thể:

Thứ nhất, PTBV về kinh tế

PTBV về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế, trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người.

PTBV về kinh tế là phải giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác; thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường; tạo sự bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; đồng thời, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối...

Nền kinh tế bền vững là có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Cơ cấu GDP là tiêu chí đánh giá PTBV về kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.

Thứ hai, PTBV về xã hội.

PTBV về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí như: Chỉ số phát triển con người (HDI), hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.

Thứ ba, PTBV về môi trường.

Yếu tố môi trường là một nội dung hết sức quan trọng khi đánh giá, xác định PTBV. Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên.

PTBV về môi trường đòi hỏi duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.

Quan điểm của Việt Nam về phát triển nhanh và bền vững

Trong xu thế hội nhập, đổi mới, phát triển mạnh mẽ Việt Nam đã lựa chọn chiến lược phát triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững để thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Trong quá trình hội nhập, phát triển, chủ trương, quan điểm về phát triển công bằng, bền vững được Việt Nam không ngừng bổ sung và hoàn thiện.

Ngay từ Đại hội VI (năm 1986) Đảng ta khẳng định quan điểm: Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được. Đại hội VII (năm 1991) của Đảng tiếp tục xác định: Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Đại hội VIII (năm 1996) nhấn mạnh: "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) tiếp tục khẳng định quan điểm: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Đại hội XI (năm 2011) chỉ rõ, phát triển nhanh gắn với PTBV và PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, đồng thời khẳng định: Phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và PTBV; Tăng cường huy động, gắn với sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước; Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Đại hội XII (năm 2016) Đảng đã có bước phát triển mới về nhận thức với khẳng định: “Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở bền vững kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu...”.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc Đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Những nội dung mới được khẳng định: "Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu...”.

Nhận thức, quan điểm về phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam vừa có sự kế thừa nhận thức và xu hướng phát triển chung của thế giới vừa có sự vận dụng, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo đó, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam xác định:

Một là, PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. Việc xây dựng, thực hiện các chiến lược, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải đảm bảo yêu cầu PTBV.

Hai là, PTBV là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân. Huy động mọi nguồn lực xã hội; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp và các bên liên quan nhằm đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu PTBV đến năm 2030.

Ba là, con người là trung tâm của PTBV. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của PTBV. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để PTBV đất nước.

Bốn là, tạo điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau. Không để ai bị bỏ lại phía sau, tiếp cận những đối tượng khó tiếp cận nhất trước, bao gồm trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người nghèo, người khuyết tật, đồng bào vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng biên giới, hải đảo và những đối tượng dễ bị tổn thương khác.

Năm là, khoa học và công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số quốc gia sẽ là nền tảng và động lực cho PTBV đất nước.

PTBV là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo điều kiện, nguồn lực cho PTBV. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Chiến lược phát triển bền vững đến năm 2030

Việt Nam xây dựng Chiến lược phát triển giai đoạn 2021-2030 trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều khó khăn, biến động... Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cam kết thực hiện các mục tiêu PTBV, cụ thể:

Thứ nhất, PTBV về kinh tế.

Việt Nam phấn đấu, trong giai đoạn 2020-2030, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình tăng từ 5-6%/năm, GDP bình quân đầu người duy trì mức 4-4,45%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động duy trì mức tăng 5% hàng năm. Mục tiêu đến năm 2030, tăng gấp 1,5 lần năng suất lao động trong nông nghiệp và thu nhập của lao động nông nghiệp với lộ trình đặt ra là thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 43 triệu (2020); 60 triệu (2025) và 90 triệu (2030). Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm.

Thứ hai, PTBV về xã hội.

Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 35 - 40% (2020). Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25 - 26%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Mục tiêu có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,3 - 1,5%/năm. Đến năm 2025 sẽ không còn tình trạng đói nghèo, chấm dứt nghèo đói ở mọi nơi.

Thứ ba, PTBV về môi trường.

Xây dựng một nền kinh tế phi phát thải; Giảm phát thải khí nhà kính: 5% năm 2020; 25% năm 2030 và 45% năm 2050. Năm 2030 có thể đạt được các mục tiêu PTBV về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Chống sa mạc hóa, phục hồi các vùng đất và đất bị thoái hóa, kể cả đất bị ảnh hưởng bởi sa mạc hóa, hạn hán và lũ lụt, và phấn đấu để đạt được một thế giới không thoái hóa đất. Phấn đấu đạt 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 80 - 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử lý. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 44 - 45%...

Để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, Việt Nam còn nhiều việc phải làm, trong đó cần thúc đẩy hình thức đầu tư đối tác công tư, thu hút các nhà đầu tư mới để hướng tới PTBV. Các dự án giao thông, cơ sở hạ tầng trong nhiều lĩnh vực, thậm chí các dịch vụ công... đều cần có hợp tác công tư để PTBV. Nguồn vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cần ít nhất 20 tỷ USD mỗi năm trong những năm tới. Trong điều kiện nguồn vốn nhà nước hạn hẹp, trợ giúp phát triển chính thức (ODA) hạn chế, thì hình thức đầu tư đối tác công tư và huy động nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân sẽ đóng vai trò quan trọng. Đối tác công tư không chỉ là sự chung tay giữa Nhà nước và tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng mà cần được mở rộng ra các lĩnh vực cung ứng dịch vụ công và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp quan trọng có vai trò dẫn dắt nền kinh tế.

Bên cạnh đó, Việt Nam xác định tiếp tục đầu tư mạnh vào cải thiện chất lượng nguồn nhân lực; Chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nghèo, vùng sâu, vùng xa, cả về thể lực và trí lực nhằm đạt mục tiêu thiên niên kỷ như đã cam kết về phát triển con người; Ưu tiên phục vụ con người, phát huy cao nhất yếu tố con người trong mỗi chiến lược phát triển. Việt Nam đặt mục tiêu thuộc nhóm dẫn đầu các nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa vào năm 2045…

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội: VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII;
  2. Chính phủ (2020), Nghị quyết số 136/NQ-CP về phát triển bền vững;
  3. Quốc hội (2022) Hội nghị trực tuyến: Vai trò của Quốc hội đối với các mục tiêu phát triển bền vững;
  4. Phạm Thị Thanh Bình (2020), phát triển bền vững ở Việt Nam: Tiêu chí đánh giá và định hướng phát triển đến năm 2030, Tạp chí Ngân hàng.

* Phạm Thị Việt Liễu - Phó Giám đốc Trung tâm Chính trị Thị xã Mỹ Hào, Hưng Yên

** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 6/2022