Phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vữngtrong bối cảnh chuyển đổi số

Phạm Thị Kim Anh Phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững trong bối cảnh chuyển đổi số Khoa Lý luận cơ sở - Trường Chính trị Quảng Bình

Thời gian qua, nông nghiệp Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu, liên tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao. Đặc biệt, dù đối mặt với những khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu và trong nước, lĩnh vực nông nghiệp vẫn giữ vững vai trò trụ đỡ của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh chuyển đổi số tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực của nền kinh tế, ngành Nông nghiệp cần tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để “cất cánh” theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 24/6/2022 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia”.

Đặt vấn đề

Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng bậc nhất, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. So với với các ngành công nghiệp, dịch vụ, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm, nhưng nông nghiệp lại có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu và trong nước, lĩnh vực nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể, giữ vững vai trò trụ đỡ nền kinh tế.

Hiện nay, chuyển đổi số trong nông nghiệp là xu hướng tất yếu, là giải pháp then chốt cho phát triển ngành Nông nghiệp Việt Nam một cách bền vững, giảm thiểu rủi ro, thiệt hại do tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Chuyển đổi số trong nông nghiệp nhằm tạo dựng môi trường, hệ sinh thái số nông nghiệp làm nền móng, kiến tạo thể chế, thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hiện đại. Chuyển đổi số giúp ngành Nông nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, giảm được chi phí, giảm ô nhiễm nguồn nước và đất đai, bảo vệ được sự đa dạng sinh học. Hiện nay, nhiều địa phương đang tích cực đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, giúp nâng cao năng suất, tăng giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường.

Thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Kết quả nổi bật

Nhận thức được lợi thế về phát triển nông nghiệp, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Thực hiện và thể chế hóa Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị Trung ương 7 khóa X “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Chính phủ, và các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án và cơ chế, chính sách, trong đó tập trung và nổi bật là Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Đề án cơ cấu lại ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Ngày 27/02/2023, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW. Trong đó, một trong những mục tiêu của Chương trình là xây dựng nền nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, năng suất cao.

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tốc độ tăng trưởng GDP toàn Ngành giai đoạn 2011-2020 đạt 2,93%/năm. Trong giai đoạn 2021-2023, tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành có xu hướng tăng, cụ thể: năm 2021 đạt 3,27%, năm 2022 đạt 3,36%, đặc biệt năm 2023 đạt mức 3,83% - cao nhất trong nhiều năm gần đây. Tốc độ tăng trưởng ổn định và có xu hướng tăng nhờ công tác chuyển đổi số được ngành Nông nghiệp và các địa phương đẩy mạnh thực hiện. Chẳng hạn, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh, thời gian qua tại nhiều cơ sở sản xuất, nông dân đã mạnh dạn ứng dụng chuyển đổi số trong chăm sóc, theo dõi, quản lý bằng công nghệ thông tin qua điện thoại, máy tính, sản phẩm được đăng ký tem, nhãn mác, mã số, mã vạch, thuận tiện giao dịch, kết nối tiêu thụ sản phẩm. Ðến nay, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã có 71 vùng trồng rau màu chuyên canh với quy mô từ 5 ha trở lên, 24 vùng cây ăn quả tập trung quy mô 2 ha và hơn 40 ha diện tích nhà màng, nhà kính sản xuất rau, hoa cao cấp. Hay tại tỉnh Hải Dương đã và đang thực hiện chuyển đổi số trong nông nghiệp hiệu quả khi đưa các sản phẩm nông nghiệp của địa phương lên các nền tảng số giúp nông sản tiêu thụ dễ dàng và vẫn giữ được giá. Ðến nay, gần 600 sản phẩm nông sản của Hải Dương được bán trên các sàn thương mại điện tử; hơn 108 nghìn hộ sản xuất có tài khoản trên sàn thương mại điện tử; 117 nghìn hộ được đào tạo kỹ năng số...

Với việc đẩy mạnh chuyển đổi số, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng nhanh, tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng, góp phần giảm nhập siêu cho cả nước. Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2020 đạt 341,7 tỷ USD, bình quân đạt 34,17 tỷ USD/năm, tăng trưởng 5,38%/năm. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản duy trì mức cao, trên 53 tỷ USD (xuất khẩu gạo đạt kỷ lục 4,78 tỷ USD, hàng rau quả đạt 5,69 tỷ USD); thặng dư thương mại cao nhất từ trước tới nay 12,07 tỷ USD, tăng 43,7%… Ngay cả khi nền kinh tế gặp khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, căng thẳng địa - chính trị, xung đột quân sự giữa các nước, nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tạo sinh kế, việc làm và thu nhập ổn định cho người nông dân.

Với những chủ trương chính sách đúng đắn, đến nay, ngành Nông nghiệp tăng trưởng nhanh, ổn định trong một thời gian dài, đa dạng hóa và chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, hiện đại, chuyển mạnh theo hướng phát huy lợi thế, sản xuất hàng hóa với quy mô phù hợp nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều sản phẩm nông nghiệp được nâng cao, có khả năng cạnh tranh và đang từng bước chiếm lĩnh thị trường trong nước và thế giới.

Tồn tại, hạn chế

Tuy nhiên, thời gian qua, ngành Nông nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển:

Một là, nền quản trị theo hình thái tiểu nông nên rủi ro cao và hiệu quả thấp, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa cũng thấp. Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp chưa gắn bó với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Quy mô sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, ảnh hưởng đến việc triển khai ứng dụng các mô hình nông nghiệp tiên tiến.

Hai là, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp còn thấp, đa phần sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam xuất khẩu ở dạng thô, chưa qua chế biến, chiếm 70-80% kim ngạch xuất khẩu; thị trường xuất khẩu còn lệ thuộc nhiều vào nước ngoài; tăng trưởng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa trên cạnh tranh về giá ở phân khúc chất lượng thấp, chưa dựa vào lợi thế cạnh tranh về chất lượng.

Ba là, đầu tư vào nông nghiệp vẫn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của Ngành đối với nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cũng chưa phát triển, đặc biệt là khâu bảo quản sau thu hoạch và logistics. Các ngành công nghiệp chế biến và chế biến sâu nông sản chưa phát triển, đa phần là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu.

Bốn là, nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ mũi nhọn phục vụ nông nghiệp chậm được triển khai. Các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến và chế biến sâu và các lĩnh vực khoa học của kỷ nguyên số... ứng dụng vào nông nghiệp còn thấp do thiếu nhân lực trình độ cao và đầu tư chưa đồng bộ, vì vậy chậm được triển khai.

Năm là, lao động trong ngành Nông nghiệp đa số trình độ thấp, có khoảng 70% số lao động chưa qua bất kỳ một khóa đào tạo chuyên môn nào; lao động có trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 9%; còn thiếu kiến thức khoa học, kiến thức quản trị sản xuất, thông tin thị trường. Trong khi đó, bối cảnh chuyển đổi số lại yêu cầu năng lực, trình độ nhân lực trong ngành Nông nghiệp phải cao hơn, chuyên nghiệp hơn.

Một số nhiệm vụ, giải pháp đề xuất

Để ngành Nông nghiệp của Việt Nam “cất cánh” theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 24/6/2022 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, đồng thời hiện thực hóa mục tiêu “Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia” trong bối cảnh chuyển đổi số, cần chú trọng triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về “Cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông thôn, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân thông minh” trong toàn Ngành và đến các cấp, ngành, địa phương, người dân; chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp để khai thác và phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại.

Hai là, phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng. Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát triển toàn diện, đồng bộ kinh tế nông thôn với cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ hợp lý, dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn đồng bộ, hiện đại, kết nối với đô thị, từng bước tiệm cận về điều kiện kết cấu hạ tầng, dịch vụ của đô thị; hiện đại hóa kết cấu hạ tầng giao thông gắn với chuyển đổi số...

Ba là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hoàn thiện, bổ sung chính sách, pháp luật đất đai bảo đảm quản lý, sử dụng bền vững, hiệu quả đất nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ, tập trung, sử dụng linh hoạt, hiệu quả đất lúa. Phát triển thị trường tài chính, tín dụng vi mô; hoàn thiện chính sách bảo hiểm nông nghiệp, phát triển trang trại, kinh tế hộ, kinh tế tập thể, liên kết, hợp tác sản xuất, kinh doanh; tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. Cần huy động nguồn lực, bảo đảm đủ kinh phí đầu tư xây dựng các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng; nghiên cứu phát triển các mô hình hợp tác xã nông nghiệp đa chức năng, tổ hợp tác nông nghiệp đa chức năng; thành lập và phát triển các câu lạc bộ nông nghiệp công nghệ cao đa chức năng... có sự kết nối khu vực và cả nước để tạo động lực mới, mở ra cơ hội và kỳ vọng mới cho phát triển bền vững ngành Nông nghiệp Việt Nam.

Bốn là, ưu tiên ứng dụng công nghệ 4.0, nhất là các công nghệ phục vụ cho chuyển đổi số trong nông nghiệp ở các khâu then chốt, có thể làm ngay, như truy xuất nguồn gốc, giao dịch và tiêu thụ nông sản... Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng. Đây là vấn đề quan trọng để người nông dân Việt Nam làm chủ các công nghệ nguồn, các bài toán lõi, làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giá trị gia tăng của nông sản. Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, tăng trưởng xanh. Cần tập trung nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo từ xa, quản lý và ứng phó rủi ro liên quan đến thời tiết và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, của dịch bệnh, gắn kết hệ thống này với dịch vụ tư vấn nông nghiệp...

Năm là, tạo đột phá trong phát triển nhân lực, đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề để đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, tận dụng hiệu quả cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế; đổi mới toàn diện hình thức tổ chức và nội dung đào tạo nghề, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, nhất là lao động trẻ, đáp ứng nhu cầu thị trường. 

Tài liệu tham khảo:

  1. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 24/6/2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII,
    về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
  2. Lê Minh Hoan (2023). Tiếp tục thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhanh và bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn mới. Tạp chí Cộng sản điện tử;
  3. Trần Đức Viên (2023). Phát triển nông nghiệp Việt Nam: Vấn đề đặt ra và một số giải pháp. Tạp chí Cộng sản điện tử;
  4. Nguyên Phúc (2023). Đẩy mạnh chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Nhân dân điện tử.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 3/2024