Phát triển quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước
Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và chấp hành cam kết trong lĩnh vực lao động. Hội nhập quốc tế mang lại cơ hội và động lực phát triển mạnh mẽ nhưng cũng đặt ra những thách thức đối với vai trò của nhà nước trong quản lý và điều hòa quan hệ lao động. Thực trạng quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở nước ta thời gian qua và một số khuyến nghị để giải quyết vấn đề còn tồn tại trong thời gian tới là nội dung bài viết tập trung làm rõ.
Thách thức đặt ra
Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế ngoài nhà nước, góp phần thúc đẩy thu hút mở rộng đầu tư, nâng cao hiệu quả cạnh tranh, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Các dự báo đều cho rằng, với quyết tâm kiến tạo, hành động và cải cách của Chính phủ, sẽ có rất nhiều DN trong và ngoài nước được thành lập và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Việt Nam hiện đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thu hút nhiều công ty nước ngoài, công ty đa quốc gia đầu tư và hoạt động tại đây, cũng đang kéo theo những xung đột, tranh chấp trong quan hệ lao động.
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như lạm phát, DN thu hẹp sản xuất, thất nghiệp, người lao động bị sa thải có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Điều này làm gia tăng thêm áp lực cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Hơn nữa, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, quan hệ lao động ở Việt Nam không những chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam mà còn chịu sự chi phối bởi luật quốc tế, các quy tắc ứng xử của các tập đoàn…
Những thông lệ quốc tế, các quy tắc ứng xử về quan hệ lao động buộc các DN phải quan tâm hơn đến trách nhiệm xã hội đối với người lao động.
Trong khi đó, cạnh tranh gay gắt, yêu cầu khắt khe của thị trường đòi hỏi DN phải tìm cách giảm chi phí sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động, làm tăng thêm căng thẳng cho quan hệ lao động, tình trạng lãn công, đình công cũng vì thế tăng theo... Số liệu công bố mới đây của Tổng Liên đoàn Lao động cho thấy, trong giai đoạn 2013-2016 trên cả nước xảy ra 1.284 cuộc tranh chấp lao động tập thể, đình công, chủ yếu trong ngành Dệt may (39,17%), Giày da (14,41%), Điện tử (9,27%)… Cũng theo thống kê, từ năm 1995 (Bộ Luật Lao động có hiệu lực) đến nay, cả nước xảy ra trên 6.000 cuộc tranh chấp lao động, đình công.
Bên cạnh đó, việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và chấp hành các nghĩa vụ quốc tế trong lĩnh vực lao động cũng làm nảy sinh không ít thách thức mới cần giải quyết. Cụ thể, cần hình thành các cơ chế quản lý, bảo vệ và hỗ trợ những tổ chức đại diện của tập thể lao động để các tổ chức này có thể hoạt động hiệu quả, thực chất và theo đúng tôn chỉ mục đích của mình; Quản lý và đảm bảo tính thực chất của các cơ chế đối thoại, thương lượng tập thể và giải quyết tranh chấp lao động trong bối cảnh Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về quan hệ lao động...
Trên thực tế, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, tham gia vào xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề cải thiện quan hệ lao động.
Theo đó, đã có khá nhiều chính sách liên quan được ban hành như: Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/01/2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước góp phần nâng cao thế và lực cho người lao động nước ta”; Chỉ thị số 22-CT/TƯ ngày 05/06/2008 của Ban Bí thư về “Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong DN”; Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg ngày 24/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Đề án Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình DN giai đoạn 2009-2012”; Quyết định số 1780/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Đề án xây dựng đời sống văn hóa công nhân ở các khu công nghiệp đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”…
Các cơ quan quản lý cũng đã sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động và quan hệ lao động theo hướng phù hợp hơn với cơ chế thị trường và tiếp cận gần hơn các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Đồng thời, thành lập Uỷ ban Quan hệ lao động, Trung tâm Hỗ trợ phát triển quan hệ lao động, Hội đồng tiền lương Quốc gia; Giao nhiệm vụ quản lý quan hệ lao động tại cơ sở cho Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, Ban quản lý các khu công nghiệp tại các địa phương…
Những vấn đề đáng chú ý
Quan hệ lao động giữa các DN ngoài nhà nước và công nhân có nhiều yếu tố tác động. Theo đó, tình trạng DN có vốn đầu nước ngoài có dấu hiệu chuyển giá tăng lên, gây thất thu ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến quyền lợi của công nhân.
Các quy định về chức năng của các tổ chức công đoàn tại các DN cũng chưa được phát huy hết hiêu lực. Ngoài ra, khảo sát các cuộc đình công cho thấy, hầu hết các cuộc đình công xảy ra là do xung đột về tiền lương, tiền thưởng, tiền ngoài giờ và phụ cấp chiếm đa số. Trong khi đó, công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý và hoạt động của các đoàn thể chưa được quan tâm đúng mức.
Điều này làm cho quan hệ lao động ngày càng căng thẳng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và bất lợi cho cả các bên. Đánh giá lại mối quan hệ lao động của các DN ngoài nhà nước và công nhân trong cả nước có thể thấy một số vấn đề đáng chú ý sau:
Thứ nhất, về tình hình ký kết hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể.
Về mặt pháp lý, trước khi tiến hành lao động, người lao động và người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động và các điều khoản phải được ghi rõ trong hợp đồng lao động làm căn cứ cho việc thực hiện và mọi khiếu nại liên quan đến lao động. Hiện nay, đa số các hợp đồng lao động đều đảm bảo nội dung theo quy định của Bộ luật Lao động.
Tuy nhiên, các điều khoản trong hợp đồng liên quan đến lợi ích như tiền lương, tiền thưởng, các khoản trợ cấp, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội, thời gian thử việc dễ bị người sử dụng lao động lách luật chiếm phần lợi ích này. Số người lao động ở DN có vốn đầu tư nước ngoài được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn chiếm tỷ lệ rất thấp.
Trong khi đó, những quy định của pháp luật về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động còn bất hợp lý. Bộ luật Lao động trao cho người lao động quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không xác định thời hạn quá dễ dàng vừa gây khó khăn cho chính người sử dụng lao động trong việc sử dụng lao động, đào tạo nâng cao tay nghề và cả người lao động trong việc quá dễ dàng bị nghỉ việc mà thiếu các cơ chế bồi thường…
Thứ hai, về chính sách tiền lương, các chế độ phụ cấp, phúc lợi và khen thưởng.
Số liệu mới nhất của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho thấy, tiền lương bình quân thực hiện năm 2016 là 5.710.000 đồng/tháng, tăng 7,5% so với năm 2015, trong đó: DN dân doanh ước thực hiện là 5.470.000 đồng/tháng, tăng 10,06% so với năm 2015; DN có vốn đầu tư nước ngoài ước thực hiện là 5.690.000 đồng, tăng 8,58% so với năm 2015.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tiền lương của người lao động không thể trang trải cho cuộc sống hàng ngày của họ, thậm chí người lao động chấp nhận tăng ca liên tục mà vẫn không đủ sống. Lạm phát trong những năm qua tăng cao khiến cho việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu của Nhà nước không theo kịp tốc độ tăng giá trên thị trường.
Ngoài tiền lương, người lao động còn hưởng các phúc lợi khen thưởng khi DN sản xuất kinh doanh có lãi. Hiện nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thưởng không đồng đều do tình hình sản xuất kinh doanh ở những DN khác nhau.
Chẳng hạn, theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tại dịp thưởng Tết năm 2017, người có mức thưởng cao nhất tại một DN có vốn đầu tư nước ngoài tại TP. Hồ Chí Minh lên đến 1 tỷ đồng, trong khi mức thưởng thấp nhất chỉ là 50.000 đồng/người tại một số DN có vốn đầu tư nước ngoài ở các tỉnh Thái Bình, Tây Ninh, Hải Dương, chỉ tăng 10.000 đồng so với năm 2016 (40.000 đồng/người).
Tuy nhiên, nhìn chung, bình quân người lao động nhận được tiền thưởng tương đương một tháng lương. Chẳng hạn, đối với thưởng Tết Nguyên đán 2017, thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho thấy, mức thưởng bình quân đạt khoảng 1 tháng lương, khoảng 4.900.000 đồng/tháng, bằng 96% so với năm 2016.
Hiện nay, đại bộ phận người lao động phải tăng ca, nhất là các DN thuộc ngành may mặc, da giày, chế biến thực phẩm. Theo số liệu của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh, thời gian làm thêm bình quân của người lao động là 0,89 giờ/ngày, 22 giờ/tháng, 260 giờ/năm đối với 90% lao động.
Như vậy, lao động phải làm thêm giờ là rất đông. Tổng số giờ làm thêm bình quân trong năm vượt trội hơn khoảng 30% so với quy định của Bộ luật Lao động. Tuy nhiên, dù số giờ tăng ca thường tăng cao vào khoảng cuối năm nhưng thu nhập của công nhân được hưởng cũng rất thấp.
Một số kiến nghị
Định hướng thu hút hoạt động đầu tư kinh doanh đối với các DN ngoài nhà nước đã được Đảng chỉ đạo và Nhà nước thực hiện hiện xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc thiếu thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động của các DN này nên xảy ra tình trạng không kịp thời chấn chỉnh và kiểm soát được các cuộc tranh chấp lao động.
Bên cạnh đó, các quy định của Bộ luật Lao động không thay đổi kịp với sự phát triển của DN đã làm nảy sinh nhiều hệ lụy mà người lao động là người phải hứng chịu và ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh của địa phương nơi DN hoạt động. Trong thời gian tới, nhằm cải thiện quan hệ lao động giữa các DN ngoài nhà nước và người lao động, cần chú trọng một số vấn đề sau:
Một là, xem xét giảm thuế TNDN để khuyến khích DN trả thưởng và phúc lợi xã hội.
Trong những năm qua hoạt động chuyển giá diễn ra phổ biến ở các DN có vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu ngày càng tăng tại các địa phương có tốc độ tăng trưởng cao như TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Các DN này báo cáo lỗ trong nhiều năm liền.Hành vi này không chỉ nhằm mục đích trốn phải đóng thuế cho Nhà nước mà còn thông báo lỗ để hạn chế việc trả thưởng, các khoản phúc lợi và lương của người lao động.
Thống kê cho thấy, hiện nay thuế suất thuế thu nhập DN hiện nay của Việt Nam khá cao (25%), cao hơn Singapore (17%) và Hồng Kong 16,5%. Ngoài thuế, các DN còn phải chi phí cao cho nhiều khoản khác do hạ tầng giao thông, liên lạc, tuyển dụng lao động, chi phí đầu tư ngầm…
Để cải thiện môi trường đầu tư, thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài, góp phần hạn chế tình trạng chuyển giá (trong đó có nguyên nhân do thuế suất thuế thu nhập DN cao) và cải thiện đời sống cho người lao động, cần xem xét giảm thuế thu nhập DN hoặc có các mức thuế suất phù hợp hơn đối với từng loại hình, quy mô DN.
Việc giảm thuế thu nhập DN sẽ tạo điều kiện cho các DN có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy đầu tư, đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, từ đó Nhà nước sẽ có cơ hội gia tăng ngân sách nhà nước và DN cũng sẽ hỗ trợ thu nhập thêm đối với người lao động.
Hai là, đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật về lao động.
Những năm qua, với sự hội nhập quốc tế sâu rộng, nền kinh tế phát triển liên tục, các quy định của pháp luật đã không kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Chẳng hạn, các quy trình giải quyết tranh chấp lao động như hiện nay rất khó thực hiện, vì thế các cuộc đình công xảy ra trong thời gian qua đều bị coi là đình công bất hợp pháp, điều này phần nào gây bất lợi cho người lao động khi đấu tranh đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình.
Trong thời gian tới, các văn bản quy phạm pháp luật cần phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nội dung nhằm giải quyết các vấn đề về quan hệ lao động. Cụ thể, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động và các vấn đề liên quan đến tiền lương, tranh chấp lao động, hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể...; Cần bổ sung các quy định về ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành, các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, các quy chế nhằm bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở.
Đặc biệt, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp để đảm bảo những quyền cơ bản của người lao động, nhất là những quyền được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của ILO cũng như các cam kết tại các hiệp định tự do thương mại.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát lao động, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN.
Các cơ quan quản lý cần tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện và chấp hành các quy định của pháp luật. Hiện nay, công tác thanh tra kiểm tra của Nhà nước rất lỏng lẻo và yếu kém.
Tình trạng nhiều DN có vốn đầu tư nước ngoài không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về thời gian lao động của người lao động, các chế độ phụ cấp lương, thưởng, bảo hiểm xã hội, người lao động bị o ép, sa thải vô cớ thậm chí sa thải mà không trả một khoản trợ cấp thôi việc nào... bắt nguồn từ thực tế công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của Nhà nước vẫn còn buông lỏng, chưa theo kịp với tình hình thực tế.
Do vậy, cần chủ động nắm bắt tình hình, đôn đốc kiểm tra, giám sát việc các DN chấp hành các quy định của pháp luật, khuyến khích DN chăm lo đời sống cho người lao động để họ an tâm sản xuất bởi đó cũng chính là yếu tố đảm bảo lợi ích của DN. Cùng với việc tăng cường kiểm tra giám sát, Nhà nước cũng phải luôn tạo điều kiện cho DN hoạt động kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ DN phát triển bền vững, qua đó có nguồn lực tài chính để hỗ trợ người lao động.
Bốn là, nâng cao tính chuyên nghiệp cho người lao động và trách nhiệm và vai trò của công đoàn cơ sở.
Hiện nay, việc chỉ trích 1% lương cho hoạt động công đoàn ở các DN có vốn đầu tư nước ngoài làm cho hoạt động của công đoàn cơ sở thêm khó khăn do kinh phí hạn hẹp. Với chức năng, nhiệm vụ là đại diện cho người lao động trong việc thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể, đại diện cho người lao động về các quyền và nguyện vọng, giải quyết các vấn đề bức xúc và nguyện vọng chính đáng của người lao động, các cấp công đoàn cần cải thiện, đổi mới tổ chức, nâng cao tính hiệu quả và đáp ứng tình hình phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay. Ngoài phát triển công đoàn cơ sở, cần thành lập nghiệp đoàn cho những người làm việc trong cùng một ngành nghề nhằm đảm bảo cho người lao động tránh được những áp lực từ phía người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò của tập thể trong việc thương lượng với người lao động về tiền tăng ca, xây dựng thỏa ước lao động ngành nhằm tiến tới việc Nhà nước quy định đơn giá bình quân trong một giờ lao động làm thêm cho những lĩnh vực khác nhau, từ đó làm căn cứ tính toán cho việc tăng ca có hiệu quả hơn, tránh tình trạng lạm dụng sức lao động của người lao động mà không trả công xứng đáng. Về phía người lao động cần thể hiện trách nhiệm của mình đối với DN, phải tuân thủ những quy định của pháp luật nhằm hạn chế cao nhất những xung đột xảy ra.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2012), Bộ Luật Lao động (Luật số 10/2012/QH13);
2. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014/QH13);
3. Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2017;
4. Trung tâm Hỗ trợ phát triển quan hệ lao động (2016), Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế;
5. Linh Chi (2017),Giải quyết các tranh chấp lao động tập thể: Công đoàn cần tạo lòng tin cho người lao động, Kinh tế và Đô thị.