Phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới hậu Covid-19 và gợi mở chính sách cho Việt Nam

Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 6/2020

Đại dịch Covid-19 diễn biến trên toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng đã mở ra những cơ hội mới trong kinh doanh đối với một số ngành nghề.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Một trong số đó là phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới. Nghiên cứu đã phân tích những cơ hội và thách thức trong phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới tại Việt Nam thời hậu Covid-19 để gợi mở những chính sách then chốt liên quan đến công tác hải quan, thuế, logistics và đào tạo nguồn nhân lực.

Tiềm năng phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới

Thương mại điện tử xuyên biên giới (TMĐTXBG) được phát triển trên nền tảng thương mại quốc tế truyền thống kết hợp với thương mại điện tử (TMĐT) trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù, mới xuất hiện từ những năm 2000 nhưng TMĐTXBG đã phát triển nhanh chóng tại các nước Liên minh châu Âu (EU), Bắc Mỹ và lan rộng sang châu Á - Thái Bình Dương và các nước trên thế giới. Xu hướng phát triển chính của TMĐTXBG ban đầu dựa trên mô hình kinh doanh B2C (TMĐT giữa doanh nghiệp (DN) và người tiểu dùng) đã minh chứng sự tăng trưởng cả về giá trị tuyệt đối (tăng từ 233 tỷ USD năm 2014 dự kiến tăng lên 994 tỷ USD năm 2020) và giá trị tương đối (tỷ trọng TMĐTXBG trong TMĐT tăng liên tục trên 20,3%/năm, tăng trung bình 27,4%/năm, cao hơn tốc độ tăng trung bình của TMĐT nội địa (10,0%/năm) và tổng TMĐT (13,5%/năm) trong giai đoạn 2014-2020) (Hình 1).

Phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới hậu Covid-19 và gợi mở chính sách cho Việt Nam - Ảnh 1

Việt Nam nằm trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, là quốc gia có tốc độ phát triển TMĐTXBG nhanh nhất thế giới. Tỷ trọng trung bình của khu vực so với toàn cầu tăng liên tục qua các năm, đạt giá trị trung bình 41,3%/năm và tốc độ tăng trưởng đạt trung bình 37,7%/năm, cao hơn mức trung bình toàn cầu 27,4%/năm trong giai đoạn 2014-2020 (Hình 2).

Tổng kim ngạch và tốc độ tăng TMĐT của Việt Nam cũng tăng nhanh trong giai đoạn 2014-2020. Số liệu thống kê của Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM, 2019), giá trị quy mô thị trường đạt mức 4 tỷ USD (2015) và 7,8 tỷ USD (2018), dự báo 13 tỷ USD (2020) cao hơn mục tiêu 10 tỷ USD theo kế hoạch đề ra của Chính phủ giai đoan 2016-2020. Tốc độ tăng trưởng đạt trung bình trên 30%/năm, dự kiến quy mô thị trường đạt 33 tỷ USD (2025) và đứng thứ ba ở Đông Nam Á sau Indonesia (100 tỷ USD) và Thái Lan (43 tỷ USD) (VECOM, 2019).

TMĐTXBG xuất hiện và phát triển nhanh trong giai đoạn qua chủ yếu dưới hình thức nhập khẩu hàng hóa thông qua các đơn hàng TMĐT trên các sàn giao dịch TMĐT của Amazon, Alibaba hoặc giao dịch qua mạng xã hội như Facebook. Thực tế cho thấy, việc xuất khẩu hàng hóa thông qua TMĐTXBG có xu hướng tăng lên thông qua việc tham gia của các DN vào các sàn TMĐT lớn trên thế giới (khoảng 1.000 DN tham gia trên Alibaba và khoảng 200 DN tham gia trên Amazon; ngoài ra, các DN cũng đã xây dựng các trang Website bán hàng riêng để giới thiệu và bán sản phẩm).

Tuy nhiên, khi đại dịch Covid -19 xảy ra trên phạm vi toàn cầu đã có tác động lớn đến TMĐT nói chung và TMĐTXBG nói riêng. Qua khảo sát cho thấy, TMĐTXBG có biến động cả về mức tăng trưởng doanh số và quy mô, tuy nhiên, thực tế chỉ ra là xu hướng tăng lên so với cùng kỳ của năm 2019. Xu hướng tăng nhanh nhất diễn ra tại khu vực các nước Trung Đông, nơi đại dịch Covid-19 lan rộng từ tháng 12/2019 đến tháng 4/2020.

Tiếp cận từ phía DN TMĐT, dịch Covid-19 đã có tác động tích cực đến cầu của thị trường TMĐT, làm gia tăng cầu hàng hóa thiết yếu và khẩu trang, dụng cụ y tế và hàng bách hóa phục vụ tiêu dùng mà điển hình diễn ra tại Mỹ và các nước châu Âu. Minh chứng chỉ rõ: Trong thời điểm dịch Covid-19 bùng phát tại Mỹ và các nước châu Âu, người dân ở nhà do lệnh phong tỏa đã khiến lượng đơn hàng trực tuyến của các hãng TMĐT tăng đột biến, kèm theo đó là sự thiếu hụt nhân lực để đóng gói, bán hàng, giao hàng đến từng người dân. Ngày 18/3/2020, Amazon phải thuê thêm khoảng 100.000 nhân viên để giải quyết việc khách hàng của Công ty này tại Mỹ hầu hết đã chuyển sang đặt hàng trực tuyến để tránh sự lây lan từ Covid-19. Amazon đã trả gấp đôi lương cho nhân viên kho vận làm việc tăng ca. Cụ thể, Amazon chi thêm 350 triệu USD để tăng tiền lương cho công nhân trên khắp Mỹ, châu Âu và Canada. Các công nhân ở Mỹ được trả thêm 2 USD/giờ cho đến cuối tháng 4. Nhân viên tại Anh được trả thêm 2 Bảng/giờ, trong khi người lao động ở châu Âu được trả thêm 2 EUR/giờ. Mức lương tối thiểu của Amazon hiện là 15 USD/giờ. (Cafebiz, 2020).

Đối với một số nước thuộc thị trường châu Á-Thái Bình Dương hoạt động TMĐTXBG có sự biến động mạnh, sụt giảm mạnh vào tháng 1 và tháng 2/2020 so với các tháng cuối năm 2019. Xu hướng tăng trưởng trở lại đã được phục hồi tại Trung Quốc và Đài Loan ở mức từ 130% đến 153% trong tháng 3 và tháng 4/2020. Các nước khác như: Hàn Quốc, Hồng Kong và Singapore thì sự hồi phục chậm và không có nhiều biến chuyển tích cực.

Tại Việt Nam, dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến TMĐT nói chung và TMĐTXBG nói riêng. Qua khảo sát của iPrice Insights phối hợp SimilarWeb đối với 4 nền tảng TMĐT dẫn đầu thị trường thì có 3 nền tảng Tiki, Lazada và Sendo có số lượng khách hàng truy cập sụt giảm mạnh so với cùng kỳ và các quý cuối năm 2019. Chỉ có nền tảng Shopee có giảm trong quý III và quý IV/2019 nhưng lấy lại đà tăng vào quý I/2020 (VECOM, 2019) (Hình 3).

 Tuy nhiên, giai đoạn dịch Covid-19 và hầu hết các quốc gia áp dụng lệnh giãn cách xã hội, người dân bị hạn chế tiếp cận đến các cửa hàng, siêu thị trong thời gian khá dài. Điều này đã thúc đẩy không chỉ người tiêu dùng có sự thay đổi quan trọng thói quen mua hàng từ thương mại truyền thống sang mua trực tuyến trên các sàn giao dịch điện tử hoặc các website, thúc đẩy nhanh chóng sự chuyển đổi số của DN TMĐT, DN logistics hỗ trợ trong giao hàng đến tận nhà.

Gijae Seong - Giám đốc Amazon Global Selling Đông Nam Á, Úc và New Zealand cho rằng: Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển TMĐTXBG nhờ lợi thế trong ngành sản xuất, nguồn cung ứng lao động dồi dào, với nhiều tài năng trẻ và cộng đồng mạng lớn. Vấn đề đặt ra là thời kỳ hậu Covid-19, Việt Nam có tận dụng được những lợi thế và sư thay đổi hành vi, thói quen mua hàng của người tiêu dùng để thúc đẩy TMĐTXBG phát triển không?

Cơ sở lý luận

Tiếp cận về lý luận thì TMĐTXBG là việc kết hợp giữa TMĐT và thương mại quốc tế giữa các quốc gia. Khi đó, TMĐTXBG có nghĩa là hoạt động mua bán trực tuyến quốc tế hay nói cách khác là việc bán hoặc mua sản phẩm được thực hiện thông qua mạng internet. Người mua và người bán không ở cùng một quốc gia và thường không chịu sự quản lý bởi một cơ quan quyền lực quốc gia, có thể sử dụng các đồng tiền thanh toán khác nhau và nói các ngôn ngữ khác nhau, thực hiện giao hàng hoá bằng cách sử dụng dịch vụ chuyển phát nhanh xuyên biên giới hoặc dịch vụ bưu chính để kết thúc giao dịch mua bán. (Từ điển Cambridge).

Phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới hậu Covid-19 và gợi mở chính sách cho Việt Nam - Ảnh 2

Như vậy, đối tượng của TMĐTXBG là hàng hóa hữu hình được mua bán dưới hình thức xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới quốc gia. Trên thực tế, với cú sốc Covid-19 đã đem đến cho TMĐTXBG những cơ hội mới từ phía cầu (thay đổi thói quen hành vi mua của người tiêu dùng hướng đến thị trường TMĐT, gắn với các mô hình giao dịch TMĐT đối với hàng hóa cả xuất khẩu và nhập khẩu, gồm: Mô hình kinh doanh B2C (Business to consumer: DN bán hàng cho người tiêu dùng thông qua các sàn giao dịch TMĐT lớn như Amazon, Alibaba, EBay hoặc thông qua các Website mua bán trực tuyến của DN xây dựng); Mô hình kinh doanh B2B (Business to Business: DN bán hàng hóa cho một hay nhiều DN khác hoặc nhiều DN cung cấp hàng cho một DN hoặc nhiều DN mua, nhiều DN bán thông qua các sàn giao dịch TMĐT, các trung tâm giao dịch TMĐT (HUB) hay B2B e-marketplace; Mô hình kinh doanh B2G (Business to Government: DN bán hàng cho Chính phủ hoặc chính phủ mua hàng của các DN nước ngoài thông qua các sàn giao dịch TMĐT, các trang Website, các Trung tâm giao dịch HUB ) và mô hình kinh doanh C2C (consumer to consumer: hai bên người mua và người bán là các cá nhân ở hai quốc gia sử dụng các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, Google Plus, Linkedin, MySpace… và họ sử dụng gửi hàng theo dạng bưu phẩm hoặc hàng quà biếu, quà tặng…).

Lợi ích vượt trội của TMĐTXBG đã được các công trình nghiên cứu chỉ ra và kiểm chứng trong giai đoạn ban đầu tại các thị trường EU, Bắc Mỹ nơi có đầy đủ các điều kiện đảm bảo cho việc mở rộng từ TMĐT nội địa sang TMĐTXBG như: Bảo mật trong thanh toán, thủ tục thông quan hải quan nhanh chóng, dịch vụ logistics chất lượng, bên mua, bên bán uy tín.

Sau đó, sự kiểm chứng gắn với sự phát triển mạnh TMĐTXBG tại châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông thông qua sự phát triển thị trường quốc tế của Alibaba, Amazon có kết nối với các sàn giao dịch TMĐT của các quốc gia. Lợi ích vượt trội của TMĐTXBG so với thương mại quốc tế truyền thống kể đến như: phá vỡ không gian và thời gian mua và bán hàng (24/7/365 và mua hàng bất cứ nơi nào có internet), giảm chi phí thời gian và tài chính, thanh toán thuận tiện, mở rộng cung và cầu thị trường, giao hàng nhanh, đúng người, đúng địa điểm; có khả năng hoàn trả hàng và đổi hàng nhanh chóng nếu không đảm bảo chất lượng như cam kết.

Đại dịch Covid-19 đem đến cơ hội mới từ phía cầu thị trường trên cơ sở làm thay đổi thói quen mua hàng của người tiêu dùng, chuyển từ thói quen mua hàng truyền thống sang mua hàng qua TMĐT. Các chuyên gia đánh giá, đây là một tác động tích cực và tác động vàng đến TMĐT nói chung và TMĐTXBG nói riêng. Bởi vì, nếu để tiến triển theo thị trường thì còn phải mất rất nhiều thời gian mới làm thay đổi suy nghĩ, hành vi và thói quen tham gia vào TMĐT của người tiêu dùng, DN và Chính phủ. Từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát với chính sách giãn cách xã hội diễn gia trên phạm vi ở hầu hết các quốc gia và trong thời gian dài đã buộc các bên cung và cầu tiếp cận nhanh chóng đến TMĐT và phát hiện, khai thác các lợi ích ưu việt của nó.   

Vấn đề đặt ra thời hậu Covid-19 trong phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới ở Việt Nam

Thời kỳ hậu Covid-19 có tận dụng được cơ hội vàng cho phát triển TMĐTXBG ở Việt Nam hay không còn phụ thuộc vào những chính sách và thực thi chính sách khắc phục những tồn tại, cản trở chính phát sinh, đến thực hiện giao dịch (khớp nối cung và cầu) và sự chuyển đổi số, chiến lược kinh doanh của các DN TMĐT đang hiện hữu như sau:

Phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới hậu Covid-19 và gợi mở chính sách cho Việt Nam - Ảnh 3

Một là, tác động tiêu cực của Covid-19 đã làm đứt gẫy chuỗi cung ứng xuyên biên giới (đặc biệt vận tải đường hàng không là phương thức vận chuyển chính đã bị tê liệt và các phương thức vận tải khác như đường bộ, đường sắt và đường biển cũng bị sụt giảm mạnh), sự suy giảm năng lực cung cấp dịch vụ của các công ty logistics (nguồn nhân lực, thái độ, tính chuyên nghiệp, tâm lý, tài chính) tham gia hỗ trợ và cung cấp dịch vụ giao hàng trong TMĐTXBG.

Qua khảo sát của Hiệp hội DN dịch vụ logistics (3/2020) đối với 35 DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam (18 DN đại diện miền Bắc và 17 DN miền Nam), kết quả tác động của Covid-19 đến các DN này là rất lớn trên các mặt nêu trên. Bên cạnh đó, sự chuyển đổi số theo hướng logistics điện tử của các công ty (ứng dụng công nghệ thông tin vào hệ thống kho hàng; dây truyền phân chia hàng tự động hoặc phần mềm kiểm soát kho hàng, phần mềm theo dõi và truy xuất thực trong giao hàng) còn nhiều hạn chế.

Hai là, những vướng mắc hiện hữu trong quản lý TMĐTXBG ở Việt Nam mà các cơ quan nhà nước đang đối mặt và đang tìm phương án khả thi để giải quyết nhưng phải tạm dừng do đại dịch Covid-19, đó là:

- Cơ chế thông quan cho hàng hóa xuất, nhập khẩu dưới hình thức TMĐTXBG gặp nhiều khó khăn khi cần đáp ứng yêu cầu thông quan nhanh, tạo điều kiện TMĐTXBG, nhưng đồng thời phải đảm bảo yêu cầu của quy định pháp luật hải quan. Thực tiễn chỉ ra sự khó khăn trong xác định trị giá, mã HS hàng hóa, xuất xứ hàng hóa (xác định thuế suất), số lượng hàng hóa, các chứng từ kèm theo bộ hồ sơ hải quan, như hóa đơn, chứng từ vận tải, chứng nhận xuất xứ..

- Áp dụng chính sách mặt hàng của các bộ quản lý chuyên ngành, kiểm tra chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm đối với hàng hóa. Hiện tượng gian lận, cố tình lợi dụng chính sách miễn thuế dưới hình thức quà biếu, quà tặng, vi phạm chính sách hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu, hoặc xin giấy phép xuất nhập khẩu còn diễn ra tại nhiều chi cục hải quan.

- Triển khai và áp dụng cơ chế một cửa quốc gia và một cửa ASEAN đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa tích hợp và giải quyết các vấn đề liên quan đến TMĐTXBG.     

Thủ tục thông quan đối với hàng hóa mua bán TMĐTXBG đang áp dụng tại các chi cục vẫn theo quy trình thủ tục giống như hàng hóa xuất nhập khẩu thông thường nên mất nhiều thời gian và chưa đáp ứng được kỳ vọng của người tiêu dùng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 431/2020/QĐ-TTg phê duyệt đề án quản lý hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo nghị định và thông tư hướng dẫn, Tổng cục Hải quan đang tiếp tục xây dựng quy trình thông quan và các hướng dẫn kèm theo.

Ba là, sự suy giảm của các đại lý làm thủ tục hải quan có cung cấp dịch vụ mua bán ủy thác liên quan TMĐTXBG, do tác động của Covid-19. Nguyên nhân chính là sự đứt gẫy của các chuỗi cung ứng liên quan làm cho sự tạm ngừng hoạt động của các đại lý làm thủ tục hải quan cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến kinh doanh của các đại lý.

Việt Nam nằm trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, là quốc gia có tốc độ phát triển thương  mại điện tử xuyên biên giới nhanh nhất thế giới. Tỷ trọng trung bình của khu vực so với toàn cầu tăng liên tục qua các năm, đạt giá trị trung bình 41,3%/năm và tốc độ tăng trưởng đạt trung bình 37,7%/ năm, cao hơn mức trung bình toàn cầu 27,4%/ năm trong giai đoạn 2014-2020.

Bốn là, sự triển khai các chương trình kết nối giữa các sàn giao dịch điện tử trong nước, các DN cung ứng hàng xuất nhập khẩu trong nước với các sàn giao dịch TMĐT lớn trên thế giới như: Alibaba, Amazon bị chậm lại so với kế hoạch đặt ra như công tác đào tạo, phổ biến kiến thức, kỹ năng, cơ sở hạ tầng, phần mềm kết nối cho cộng đồng DN tham gia vào khai thác các sàn TMĐT. 

Năm là, đối với mô hình kinh doanh B2B, mặc dù sự nhận thức về lợi ích giao dịch qua sàn TMĐT của DN đã được cải thiện nhưng thực trạng việc ứng dụng hệ thống phần mềm liên quan đến mua hàng điện tử tại các tập đoàn, công ty vận tải còn nhiều hạn chế, chủ yếu vẫn áp dụng hoạt động mua hàng theo hình thức thương mại truyền thống.

Sáu là, chính sách hỗ trợ của chính phủ về thuế, bảo hiểm xã hội và chính sách khuyến khích chuyển đổi số tại các doanh nghiệp tham gia TMĐTXBG thời hậu COVID-19 còn triển khai chậm so với ý tưởng chính sách của Chính phủ.

Gợi mở chính sách phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới thời hậu Covid-19 ở Việt Nam

Thứ nhất, nhóm chính sách hỗ trợ thông quan hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong TMĐTXBG. Đây là vấn đề cấp bách và quan trọng nhất đối với TMĐTXBG. Trên cơ sở Quyết định số 431/QĐ-TTg do Thủ tưởng Chính phủ ban hành ngày 27/3/2020 phê duyệt Đề án Quản lý hoạt động TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, cần nhanh chóng xây dựng dự thảo nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện những nội dung định hướng quan trọng liên quan đến TMĐT đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Bên cạnh đó, sớm chuẩn bị dự thảo quy trình quản lý nhà nước đối với hàng hóa mua bán qua TMĐTXBG. Cụ thể:

- Xây dựng quy trình thủ tục hải quan, cách xác định trị giá hải quan, xác định mã hàng hóa đối với hàng hóa mua bán qua TMĐTXBG. Về cơ bản, nghiệp vụ phải tuân thủ Luật Hải quan và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Do tính chất của hàng hóa mua bán TMĐT cần thực hiện nhanh chóng, chính xác về thời gian, có khả năng hoàn trả nên trong thủ tục hải quan cần bổ sung và quy định cụ thể đối với các nội dung trên. Việc xác định trị giá hải quan và mã HS đối với hàng hóa trong xác định thuế thì cần có sự hợp tác chặt chẽ với các sàn giao dịch TMĐT lớn như: Alibaba, Amazon để có thông tin tham chiếu về giá giao dịch và thống nhất mã hàng hóa.

- Đối với chính sách quản lý chuyên ngành, cần bổ sung quy định về miễn cấp phép, miễn điều kiện, miễn kiểm tra chuyên ngành trong một số trường hợp trị giá hàng hóa dưới 1 triệu đồng; cần tích hợp nội dung vào cấu phần đề án quản lý chuyên ngành thống nhất đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu do Tổng cục Hải quan chủ trì soạn thảo trình Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, cần quy định rõ giới hạn thời gian cấp phép và kiểm tra chất lượng cũng như sự tích hợp nội dung vào triển khai Cơ chế một cửa quốc gia (NSW), cơ chế một cửa Asean (ASW); cũng cần bổ sung quy định về thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu qua TMĐT lưu giữ tại kho ngoại quan, kho hàng không kéo dài nhằm đảm bảo không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại mà còn đảm bảo tuân thủ pháp luật quan.

- Xây dựng quy chế về vận hành Hệ thống dữ liệu điện tử hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua phương thức TMĐT và quy định trách nhiệm, nghĩa vụ các bên phải cung cấp thông tin trước về hàng hóa cho cơ quan hải quan (các DN vận chuyển, công ty logistics có liên quan đến dịch vụ ủy thác trong mua hàng, các sàn giao dịch TMĐT liên quan, các sàn giao dịch TMĐT lớn hoạt động ở Việt Nam như Amazon, Alibaba…)

- Triển khai có hiệu quả phương pháp quản lý rủi ro trong kiểm tra trong thông quan trên cơ sở khai thác hiệu quả Hệ thống dữ liệu điện tử hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua phương thức TMĐT; Hệ thống cơ sở dữ liệu giá GTT01; áp dụng hiệu quả các quy định của Thông tư số 81/2019/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan.

- Áp dụng hiệu quả biện pháp quản lý tuân thủ đối với các công ty tham gia xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua các sàn TMĐT, đại lý làm thủ tục hải quan thực hiện dịch vụ ủy thác trong làm thủ tục hải quan xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua các sàn TMĐT.

- Tăng cường ký kết hợp tác giữa cơ quan hải quan và các sàn giao dịch TMĐT quốc tế lớn như Alibaba, Amazon liên quan đến quản lý các nội dung như: Thống nhất danh mục HS của hàng hóa, trị giá hải quan, xuất xứ, chính sách kiểm tra chất lượng, cung cấp thông tin liên quan.

- Đẩy nhanh thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN liên quan đến hàng hóa mua bán qua TMĐTXBG như: Cấp giấy phép xuất nhập khẩu, khai báo điện tử, thanh toán điện tử, hóa đơn điện tử, chứng nhận xuất xứ điện tử đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. 

Thứ hai, nhóm chính sách hỗ trợ DN cung cấp dịch vụ logistics và chuỗi cung ứng trong TMĐTXBG.

Phát triển DN cung cấp dịch vụ logistics và chuỗi cung ứng có vai trò quan trọng trong thực hiện các giao dịch TMĐTXBG nhằm đảm bảo giao hàng đúng thời gian, đúng khách hàng, đúng địa điểm, giá cả cạnh tranh; ứng dụng công nghệ Just in time, công nghệ truy xuất hàng. Chính phủ nên khuyến khích các DN triển khai nhanh chương trình chuyển đổi số, áp dụng logistics điện tử trong các khâu như: vận tải, trong quản lý kho hàng (dây chuyền chia tách tự động các đơn hàng, phần mềm quản lý kho hàng, hệ thống vận hành bốc xếp, di chuyển hàng hóa tự động trong kho, ứng dụng công nghệ trong xuất nhập hàng hóa trong kho); trong phát triển dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hóa, trong xử lý logistics ngược đối với hàng bị trả lại. Vì vậy, cần xây dựng và triển khai Đề án cấp quốc gia về thúc đẩy chuyển đổi số trong DN, trong đó quy định lĩnh vực kinh doanh logistics là một trong những lĩnh vực ưu tiên được hưởng những ưu đãi trong tín dụng, trong khấu hao nhanh đối với tài sản cố định liên quan đến đầu tư công nghệ phục vụ chuyển đổi số. 

Thứ ba, nhóm chính sách hỗ trợ DN tham gia xuất khẩu hàng hóa thông qua TMĐTXBG.

Thúc đẩy DN xuất khẩu hàng hóa qua TMĐTXBG là một trong những hướng đi có hiệu quả trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, Bộ Công Thương cần nhân rộng mô hình hỗ trợ kết nối DN trong nước với các DN TMĐT lớn trên thế giới như Alibaba, Amazon, Ebay thông qua các chương trình: Xuất khẩu thông qua TMĐT, Phát triển thương hiệu Việt Nam trên sàn TMĐT, Đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam về TMĐT, Gian hàng chung, khai thác hiệu quả website của sàn TMĐT.

Thứ tư, nhóm chính sách hỗ trợ DN và người tiêu dùng tham gia mua hàng thông qua TMĐTXBG.

- Nhóm chính sách phát triển mua hàng hóa trong các mô hình kinh doanh B2B và B2C: Chính phủ nên có đưa ra đề án quy định mua sắm công điện tử thông qua sàn TMĐT nhằm minh bạch hóa quy trình mua sắm công và tiết kiệm được thời gian, tài chính trong mua sắm công. Bên cạnh đó, triển khai tập huấn các nghiệp vụ về mua sắm công điện tử đối với đối tác nước ngoài trong thí điểm một số lĩnh vực. Các DN cần triển khai chuyển đổi số trong hoạt động đầu vào, khuyến khích mở rộng giao dịch mua hàng với nhà cung ứng ở nước ngoài thông qua nghiệp vụ mua sắm điện tử trên các sàn TMĐT. Vì vậy, cơ sở pháp lý về hóa đơn điện tử, thanh toán điện tử, đấu thầu điện tử cần tiếp tục được hoàn thiện; công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của các DN cần thực hiện hiệu quả.  

- Nhóm chính sách phát triển mua hàng theo loại hình B2C: Thực tế giao dịch TMĐT theo mô hình B2C diễn ra phổ biến và chiếm doanh thu lớn nhất. Tuy nhiên, kiến thức của người tiêu dùng khi tham gia các sàn TMĐTTXBG và trên Website bán hàng nước ngoài còn nhiều hạn chế, do vậy gặp nhiều rủi ro như: không nhận được hàng theo cam kết về thời gian, hàng bị lỗi không hoàn trả lại được, tiền thuế nộp quá cao làm cho gía hàng hóa tăng nhiều so với giá chưa thuế, chất lượng hàng khi nhận không như kỳ vọng... Chính vì vậy, cần tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn cho người tiêu dùng nắm vững, đầy đủ kiến thức trước khi tham gia mua hàng để tránh được những rủi ro; khuyến khích phát triển dịch vụ mua ủy thác thông qua các công ty TMĐT uy tín trong nước như: Tiki, Lazada, Sendo, Shopee…    

Thứ năm, nhóm chính sách về đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT và TMĐTXBG.

Đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT và TMĐTXBG vừa là giải pháp cấp bách, vừa là lâu dài. Theo đó, cần phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành với Hiệp hội và các DN TMĐT lớn đang hoạt động ở Việt Nam tổ chức các khóa đào tạo tập huấn ngắn và đào tạo dài hạn về TMĐT và TMĐTXBG. Cụ thể, các Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Công thương, Lao động - Thương binh và xã hội phối hợp với Hiệp hội TMĐT Việt Nam và các cơ sở đào tạo triển khai hiệu quả chương trình đào tạo về kinh doanh TMĐT; Tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn cho nguồn nhân lực các DN tham gia giao dịch qua sàn TMĐT (Mai Ca, 12/2019). 

Tóm lại, đại dịch Covid-19 đã gây thiện hại nặng nề cho nền kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, tuy nhiên, bên cạnh đó cũng mở ra cơ hội cho phát triển TMĐT xuyên biên giới. Để tận dụng được những cơ hội và khắc phục những cản trở do dịch Covid-19 gây ra, nghiên cứu đã đề xuất một số chính sách then chốt như: Thông qua hải quan, phát triển dịch vụ logistics, hỗ trợ DN tham gia cung ứng hàng hóa trên các sàn TMĐT, hỗ trợ DN và người tiêu dùng và sự phối hợp các bộ, ngành, Hiệp hội DN trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. 

 

Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1563/QĐ-TTg năm 2016 phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2016-2020;
2. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 431/2020/QĐ-TTg về phê duyệt đề án quản lý hoạt động thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
3. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 645/2020/QĐ-TTg về phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021-2025;
4. Bộ Công Thương (2017), Thương mại điện tử xuyên biên giới sẽ lên 900 tỷ USD vào năm 2020, https://moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/thuong-mai-%C4%91ien-tu-xuyen-bien-gioi-se-len-900-ty-usd-vaonam-2020-8121-1001.html;
5. Cafebiz (2020), Amazon và bài học chuyển đổi online mùa dịch Covid-19, https://cafebiz.vn/amazon-va-bai-hoc-chuyen-doi-online-mua-dichcovid-19-20200406170750671.chn;
6. Cục Xúc tiến Thương mại (2019), Bộ Công Thương phối hợp với Amazon tổ chức Hội nghị thương mại điện tử xuyên biên giới, https://www.moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/bo-cong-thuong-phoi-hop-voi-amazon-to-chuchoi-nghi-thuong-mai-%C4%91ien-tu-xuyen-bien-gioi-17304-1001.html;
7. Tổng cục Hải quan (2019), Xây dựng Đề án quản lý hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới;
8. Trung tâm WTO (2020), Hậu Covid-19 và cơ hội xuất khẩu quan thương mại điện tử, http://trungtamwto.vn/chuyen-de/15304-hau-covid-19-va-cohoi-cho-xuat-khau-qua-thuong-mai-dien-tu;
9. UNTAC (2016), Cross border B2C e-commerce market 2020: report highlights and methodology sharing;
10. VECOM (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam năm 2019;
11. Zion Market Research, (2020), Cross-Border B2C E-Commerce Market: Industry Growth Prospects & Trends Analysis by 2025 ; http://nwctrail.com/2020/02/26/cross-border-b2c-e-commerce-market-industry-growthprospects-trends-analysis-by-2025.