Quản lý nợ công đang dần tiếp cận hơn với thông lệ quốc tế
(Taichinh) - Chính phủ cũng đã xây dựng kế hoạch và bố trí trả nợ đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. Thông tin này được đại diện Bộ Tài chính đưa ra tại cuộc họp báo vừa được tổ chức.
Nợ công vẫn nằm trong giới hạn an toàn
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trong văn bản trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội đã chỉ rõ, nợ công của nước ta đến cuối năm 2014 là 60,3% GDP và theo kế hoạch đến năm 2016 sẽ tăng lên mức cao nhất là 64,9% GDP. Nhưng, các năm sau đó sẽ giảm dần, đến năm 2020 còn khoảng 60,2% GDP, nằm trong giới hạn quy định an toàn cho phép là không quá 65% GDP.
Theo Thủ tướng, chỉ tiêu nợ công so với GDP phù hợp với mục tiêu Chiến lược Nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và trong giới hạn được Quốc hội cho phép (Nợ công đến năm 2015 không quá 65% GDP). Nợ công cuối năm 2013 ở mức 1.942.098 tỷ đồng, bằng 54,2% GDP.
Xét về cơ cấu nợ chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước tăng lên (từ 40,3% năm 2010 lên 49,7% năm 2013), nước ngoài giảm (từ 59,7% xuống 50,3%), giảm dần sự phụ thuộc vào nợ nước ngoài (mục tiêu Chiến lược Nợ công đến năm 2020, cơ cấu nợ nước ngoài của Chính phủ giảm xuống dưới 50%). Điều này thể hiện sự tăng trưởng mạnh mẽ ở thị trường trái phiếu chính phủ trong nước.
Chỉ tiêu trả nợ chính phủ (không tính đảo nợ) so với thu NSNN hàng năm trong giới hạn cho phép và nằm trong giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế.
Công tác quản lý nợ có nhiều chuyển biến
Tại cuộc họp báo tháng 5/2015, Bộ Tài chính khẳng định, nợ công là nguồn tài chính quan trọng bổ sung cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội, góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác quản lý nợ có nhiều chuyển biến, ngày càng tốt hơn, dần tiếp cận gần hơn với thông lệ tốt trên thế giới.
Theo thống kê của Bộ Tài chính, năm 2014, khối lượng vay nợ công cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đạt khá, đã huy động được 627,8 nghìn tỷ đồng, trên 98% vốn vay đã được sử dụng trực tiếp cho các dự án hạ tầng. Việc tăng cường huy động vốn vay cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, điện, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường… đã tạo diện mạo mới cho đất nước.
Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại thuộc Bộ Tài chính cho biết, 3 năm qua, ngân sách thường dành 14%-16% tổng thu để trả nợ và mỗi năm phải vay thêm nước ngoài khoảng 4 - 5 tỷ USD.
Trước một số ý kiến cho rằng hiệu quả quản lý nợ công chưa tốt, có thể ảnh hưởng đến an toàn nợ, ông Hoàng Hải, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại khẳng định, công tác quản lý nợ có nhiều chuyển biến, ngày càng tốt hơn, dần tiếp cận hơn với thông lệ tốt trên thế giới.
Tuy nhiên, theo ông Hải, một điều đáng quan ngại đó là nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh, cơ cấu nợ chưa thực sự bền vững, việc sử dụng các khoản vay ngắn hạn cho đầu tư dài hạn làm phát sinh rủi ro tái cấp vốn và tạo ra áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn. Công tác quản lý nợ công còn phân tán, thiếu đồng bộ giữa các bộ, ngành và địa phương gây khó khăn cho công tác giám sát chi tiêu an toàn nợ công. Bên cạnh đó, việc huy động vốn, sử dụng vốn vay còn dàn trải, chưa gắn kết chặt chẽ với các hạn mức nợ công…
Đại diện Bộ Tài chính khẳng định, dù nợ công đã cao gần tới ngưỡng được phép, nhưng vẫn phải tiếp tục vay để phát triển đất nước. Do đó, nợ công có quy mô lớn là điều không thể tránh khỏi.
Chính phủ đã xây dựng kế hoạch trả nợ đầy đủ, đúng hạn
Tại buổi họp báo, ông Trương Hùng Long khẳng định, Việt Nam chưa bao giờ chậm trễ trong việc chi trả nợ, cả gốc lẫn lãi. Chính phủ đã xây dựng kế hoạch và bố trí trả nợ đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.
Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước vẫn không quá 25% theo quy định. Cụ thể, năm 2013, ngân sách bố trí 15,2% để trả nợ; tỷ lệ này năm 2014 và 2015 lần lượt là 13,8% và 16,1%.
Năm 2014, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính chủ động kéo dài kỳ hạn phát hành trái phiếu nhằm giảm dần áp lực trả nợ ngắn hạn và giảm dần đảo nợ.
Cụ thể là: giảm mạnh và tiến tới ngừng phát hành tín phiếu và trái phiếu kỳ hạn ngắn, tập trung chủ yếu vào trái phiếu có kỳ hạn dài từ 5 đến 15 năm; bước đầu cơ cấu lại danh mục trái phiếu chính phủ.
Kết quả, trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm tăng từ 14% năm 2013 lên 27% năm 2014, kỳ hạn 10 năm tăng từ 4% năm 2013 lên 13% năm 2014, kỳ hạn 15 năm tăng từ 2% lên 6% năm 2014.
Theo ông Hoàng Hải, thời gian tới sẽ quản lý chặt chẽ các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng diện, chọn lọc có mục tiêu ưu tiên, tiến tới thu hẹp bảo lãnh Chính phủ và kiểm soát việc đảm bảo trả nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh; cho vay lại theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay lại; giảm dần tỷ lệ cấp phát và thu đủ nợ đối với các khoản Chính phủ vay về cho vay lại.