Quy hoạch dễ dãi, Hà Nội đang phải trả giá ra sao?
Chung cư cao tầng là giải pháp nhà ở của người dân tại các đô thị lớn nhưng mô hình nhà ở này cũng bị coi là “tội đồ” của hàng loạt những bất cập thành thị.
Quá trình đô thị hóa và sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bất động sản Hà Nội những năm gần đây đã làm biến đổi diện mạo Thủ đô. Hà Nội đang là thành phố của những tòa nhà chọc trời.
Vi phạm những quy chuẩn cơ bản
Trước những năm 1990, tòa nhà cao nhất Hà Nội là một khách sạn ở Giảng Võ với chiều cao 30m, gồm 11 tầng. Thế nhưng chưa đầy 20 năm sau, Hà Nội đã có vô vàn những tòa nhà cao trên 30m và khoảng 100 tòa nhà cao trên 100m. Những tòa nhà chọc trời bị coi là tác nhân gây nên hàng loạt những vấn nạn của đô thị hiện đại: Bức tử hạ tầng giao thông, hạ tầng xã hội và góp phần gây nên biến đổi khí hậu…
Một thống kê cho thấy năng lượng tiêu thụ cho các công trình nhà ở cao tầng từ năm 1994 đã chiếm khoảng 23-24% tổng số năng lượng tiêu dùng. Con số này tiếp tục tăng mạnh tại các đô thị lớn trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, mô hình đô thị nén với sự hình thành các tòa nhà cao tầng là xu hướng phát triển của nhiều thành phố trên thế giới nhằm khai thác hiệu quả không gian đô thị và gia tăng giá trị sử dụng đất đai. Do đó, chung cư cao tầng là loại hình nhà ở chủ đạo và cần thiết tại các thành phố lớn - nơi tốc độ gia tăng dân số cơ học cao trong khi quỹ đất ngày càng cạn kiệt.
Vậy vì đâu mà những tòa nhà chọc trời vốn được coi như 1 giải pháp nhà ở của người dân thành thị tại các đô thị lớn lại trở thành tội đồ cho hàng loạt những bất cập?
PGS. TS Nguyễn Hồng Thục, Viện trưởng viện Nghiên cứu định cư đã đưa ra lý giải từ một trường hợp cụ thể là Hà Nội. Theo bà Thục, việc cấp phép xây dựng bừa bãi và quá trình xây dựng vi phạm những quy chuẩn rất cơ bản của xây dựng đô thị là nguyên nhân của những vấn nạn trên.
Trong quy chuẩn xây các khu chung cư đều nêu rất rõ là các đầu hồi phải cách nhau ít nhất 17 mét hoặc cách 1,5 lần chiều cao tòa nhà để tránh bóng đổ vào nhau và tránh chuyện lây lan hỏa hoạn nếu xảy ra. Việc tuân thủ các nguyên tắc này cũng giúp các chung cư lấy đủ ánh sáng và gió.
Ngoài ra, một số quy tắc tối thiểu khác là khi xây dựng các tòa cao ốc phải tránh xa những cấu trúc tự nhiên, hoặc ít nhất phải lùi cách tự nhiên, ví dụ như bờ sông ít nhất 1,5 lần chiều cao của tòa nhà để tránh bóng đổ vào các cấu trúc đó. Ngoài ra, phải dành ra các khoảng đất công cộng để người dân thành phố tiếp cận các không gian thiên nhiên.
Tổ chức lại các khu dân cư
Trên thế giới, những thành phố có dòng sông chảy qua, có hồ hiện hữu đều cấm xây các nhà biệt thự hay nhà dân sát các không gian thiên nhiên mà phải để ít nhất 1 khoảng lùi cỡ 100 mét trở lên dành cho công cộng. Thế nhưng Việt Nam lại lấy mặt tiền sông, mặt tiền bờ hồ để xây dựng. Chúng ta quây thành dẫy, bịt kín các bờ sông, bờ hồ.
Bà Thục cho biết, người Pháp khi xây dựng có nguyên tắc ứng xử với tự nhiên là giữ lại “cấu trúc nước”. Trước đây, con kênh của sông Tô Lịch dẫn từ chợ Đồng Xuân ra Hồ Tây, người Pháp lấp con kênh nhưng không biến thành đất ở mà biến thành đường, vỉa hè và trồng hai hàng cây ở hai bên bờ.
Hay cấu trúc vỉa hè của con phố Phan Đình Phùng hiện nay là nhắc lại cấu trúc tự nhiên của con kênh, mang lại không khí tự nhiên tốt lành. Đây là những ví dụ của sự tôn trọng và hiểu được giá trị của không khí, hiểu được giá trị của cảnh quan và hiểu được vẻ đẹp, chức năng tối ưu cho một thành phố.
Thế nhưng, trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị, chúng ta lấp đi 94-95 % các mặt nước và cấu trúc tự nhiên của Hà Nội. Khu đô thị kiểu mẫu Linh Đàm từng đạt mật độ cây xanh là 5-6 m2/người, hiện chỉ còn 0,4 m2/người. Hà Nội trước kia cũng từng giữ được mật độ cây xanh vào khoảng 3-4m2/người, bây giờ chỉ còn 0,8m2/người.
Việc xây dựng bừa bãi những dãy nhà cao tầng chắn mặt tiền của thành phố, chắn những hướng gió chủ đạo vào thành phố là chặn mất một nguồn lợi từ thiên nhiên làm mát thành phố, khiến nhiệt độ các thành phố càng tăng cao vào mùa nắng nóng. Như vậy, đại đa số các tòa cao tầng ở Hà Nội được hình thành đều vi phạm những quy tắc cơ bản của xây dựng đô thị.
Cũng theo bà Thục, không gian đô thị phải chồng khít với không gian kinh tế thì người dân mới an cư được. Lúc này các khu dân cư cần phải được tổ chức lại. Giải pháp thích hợp vẫn phát triển nhà cao tầng nhưng với các không gian mở và dải cây xanh cần thiết. Singapore và Hồng Kông là những ví dụ tốt nhất của xu hướng này.
"Ở các thành phố khác như trung tâm Tokyo, công việc này được thực hiện thông qua quá trình điều chỉnh đất đai (kukaku seiri). Trong trường hợp này, diện tích đất của các chủ sở hữu có thể bị cắt giảm đôi chút nhưng lại có giá trị cao hơn do việc đưa vào một số dịch vụ hạ tầng thiết yếu mà trước đây không có" - bà Thục dẫn chứng.