SSI Retail Research:
Rủi ro 2019 đến từ biến động của đồng Nhân dân tệ
Rủi ro của năm 2019 đến từ biến động của đồng NDT. Nếu đồng Nhân dân tệ (NDT) tiếp tục mất giá sẽ gây sức ép nhất định lên tỷ giá VND và gián tiếp gây sức ép lên lãi suất.
2018: Vượt khó thành công
Theo báo cáo vĩ mô của Bộ phận phân tích khối khách hàng cá nhân CTCP Chứng khoán Sài Gòn (SSI Retail Research), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và hệ thống NHTM đã có sự phán đoán, chuẩn bị rất tốt cho nhu cầu thanh khoản cao thời điểm cuối năm và việc nâng lãi suất của Fed ngày 19/12.
Cụ thể, trên thị trường dân cư, lãi suất tiền đồng sau bước tăng mạnh từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 12 cũng được duy trì ổn định ở mức 4,8-5,5% cho kỳ hạn dưới 6 tháng, 5,5-7,6% cho kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng, 6,8-8,6% cho kỳ hạn 12, 13 tháng.
Lãi suất huy động trên thị trường 1 kỳ hạn 13 tháng
Trên thị trường liên ngân hàng, NHNN tiếp tục bơm ròng 35.239 tỷ đồng trong tháng 12, chủ yếu qua kênh tín phiếu. Tuy nhiên, NHNN không thực hiện phát hành thêm mà thực hiện đáo hạn 28.960 tỷ đồng, qua đó đưa số tín phiếu lưu hành về 0.
Kênh mua bán kỳ hạn vẫn hoạt động mạnh với bình quân trên dưới 12.000 tỷ đồng cho mỗi chiều bơm/hút mỗi ngày, tính chung lại, NHNN bơm ròng qua kênh này 6.279 tỷ đồng, khối lượng OMO lưu hành là 51.064 tỷ đồng.
Lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng đi ngang sau đó giảm khá mạnh vào tuần giao dịch cuối cùng của tháng. Lãi suất kỳ hạn qua đêm trên liên ngân hàng giảm từ vùng 4,6-4,9% đã duy trì trong suốt gần 2 tháng qua về mức xấp xỉ 4,1%.
Lãi suất liên ngân hàng qua đêm và khối lượng OMO lưu hành
Đối với hoạt động điều hành tỷ giá, NHNN tiếp tục nâng mạnh tỷ giá trung tâm thêm 75đ/USD, lên mức 22.825 đồng/USD – cao hơn 400 đồng/USD tương đương tăng 1,8% so với cuôi năm 2017.
Tuy nhiên, tỷ giá giao dịch lại giảm mạnh trên cả thị trường ngân hàng và tự do. Cụ thể, tỷ giá chính thức giảm 110 đồng/USD, tỷ giá tự do giảm 130-135 đồng.
Tháng cuối năm dù ước tính nhập siêu nhẹ 200 triệu USD nhưng lại là mùa cao điểm kiều hối. Theo một nguồn tin, lượng kiều hối đổ về Việt nam năm 2018 ước đạt 15,9 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước.
Tính chung cả năm 2018, VND đã mất giá khoảng 2,2-2,3% so với USD, thấp hơn khá nhiều so với mức mất giá của EUR, GPB và CNY lần lượt là 4,5%, 5,7% và 5,4%. Hai tuần tăng giá mạnh cuối năm đã khiến đồng JPY của Nhật trở thành đồng tiền hiếm hoi tăng giá gần 3% so với USD trong năm 2018.
Ổn định tỷ giá vẫn là mục tiêu ưu tiên của năm 2019
CPI bình quân năm 2018 chỉ tăng 3,54% so với cùng kỳ, thấp hơn khá nhiều so với mức mục tiêu 4% mà Quốc hội đề ra cho cả năm 2018 và 2019.
Đợt sụt giảm mạnh của giá dầu thô quốc tế vừa qua đã khiến cho giá xăng dầu bán lẻ trong nước giảm 5 lần liên tiếp, số dư quỹ bình ổn xăng dầu đang tăng lên sẽ làm giảm đáng kể áp lực lên lạm phát 2019.
Theo nhận định của bộ phận phân tích SSI, áp lực với lạm phát hiện không quá lớn. Trọng tâm điều hành chính sách tiền tệ sẽ hướng sang mục tiêu ổn định tỷ giá thông qua kiểm soát thanh khoản tiền đồng.
Theo thông tin từ Uỷ ban Giám sát Tài chính Quốc gia, vốn huy động tăng trưởng ổn định ở mức khoảng 15%. Tâm lý găm giữ ngoại tệ theo SSI Retail Research hiện rõ trong năm 2018, huy động ngoại tệ tăng khoảng 17% cao hơn rất nhiều mức 2,1% của năm 2017.
Các nguồn cung ngoại tệ lớn của Việt Nam
Tuy nhiên, việc duy trì chính sách lãi suất USD 0% và chênh lệch lãi suất cao giữa VND và USD sẽ giúp đảo ngược tâm lý này để hỗ trợ ổn định tỷ giá. Rủi ro của năm 2019 đến từ biến động của đồng NDT. Nếu đồng NDT tiếp tục mất giá sẽ gây sức ép nhất định lên tỷ giá VND và gián tiếp gây sức ép lên lãi suất.
Tuy nhiên nhờ đã trải qua giai đoạn khó dự đoán nhất là thời điểm mới nổ ra chiến tranh thương mại, các thành viên thị trường cũng như cơ quan quản lý sẽ có sự chuẩn bị tốt hơn.
Mức độ biến động của tỷ giá USD/VND năm 2019 vì vậy sẽ chỉ xấp xỉ như 2018. Ít có khả năng xảy ra những diễn biến giật cục ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý thị trường. Mặt bằng lãi suất sẽ đứng ở mức cao và không loại trừ việc nhích tăng nếu xuất hiện áp lực tỷ giá.