Số liệu xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng đầu năm 2019
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2019 ước tính đạt 473,73 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 241,42 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 18,1%, cao hơn nhiều tốc độ tăng 11 tháng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (3,8%), đồng thời tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu (tăng 2,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng ước tính xuất siêu 9,1 tỷ USD.
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 10/2019 đạt 24.233 triệu USD, cao hơn 1.833 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 518 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 320 triệu USD; giày dép cao hơn 243 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 209 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ cao hơn 137 triệu USD; thủy sản cao hơn 76 triệu USD; sơ, sợi dệt và phương tiện vận tải cùng cao hơn 69 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2019 ước tính đạt 22,6 tỷ USD, giảm 6,7% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,45 tỷ USD, giảm 1,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,15 tỷ USD, giảm 9,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Một tăng 3,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng cao 25,8%, trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 4,5%.
Tính chung 11 tháng năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 241,42 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2018[10], trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 74,72 tỷ USD, tăng 18,1%, chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 166,7 tỷ USD, tăng 3,8%, chiếm 69% (tỷ trọng giảm 2,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
Trong 11 tháng năm 2019 có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 91,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 59,6%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 48,7 tỷ USD, chiếm 20,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 32,4 tỷ USD, tăng 19,4%; hàng dệt may đạt 29,9 tỷ USD, tăng 7,8%; giày dép đạt 16,5 tỷ USD, tăng 12,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 16,5 tỷ USD, tăng 9,8%. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước: Thủy sản đạt 7,8 tỷ USD, giảm 2,3%; rau quả đạt 3,4 tỷ USD, giảm 2,4%; hạt điều đạt 3 tỷ USD, giảm 3,4% (lượng tăng 21,5%); gạo đạt 2,6 tỷ USD, giảm 8,3% (lượng tăng 4,8%); cà phê đạt 2,5 tỷ USD, giảm 22,2% (lượng giảm 14,6%); hạt tiêu đạt 672 triệu USD, giảm 6,5% (lượng tăng 21%). Riêng cao su đạt 2 tỷ USD, tăng 7,6% (lượng tăng 8,1%); chè đạt 212 triệu USD, tăng 8,2% (lượng tăng 5,8%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 11 tháng năm 2019, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 55,6 tỷ USD, tăng 27,9% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU đạt 38 tỷ USD, giảm 2,3%; Trung Quốc đạt 37,4 tỷ USD, giảm 0,6%; thị trường ASEAN đạt 23,4 tỷ USD, tăng 2,4%; Nhật Bản đạt 18,6 tỷ USD, tăng 7,6%; Hàn Quốc đạt 18,4 tỷ USD, tăng 10,1%
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 10/2019 đạt 22.373 triệu USD, thấp hơn 127 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện thấp hơn 270 triệu USD; dầu thô thấp hơn 151 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 83 triệu USD; xăng dầu cao hơn 210 triệu USD; than đá cao hơn 109 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 68 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11/2019 ước tính đạt 22,5 tỷ USD, tăng 0,6% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,7 tỷ USD, giảm 1,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 12,8 tỷ USD, tăng 2,5%. So với cùng kỳ năm 2018, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Một tăng 4,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 14,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,1%.
Tính chung 11 tháng năm 2019, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 232,31 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 98,21 tỷ USD, tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 134,1 tỷ USD, tăng 3,1%.
Trong 11 tháng có 35 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 90% tổng kim ngạch nhập khẩu (2 mặt hàng đạt trên 20 tỷ USD, chiếm 34,7%), trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 47,3 tỷ USD (chiếm 20,4% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 33,2 tỷ USD, tăng 11%; điện thoại và linh kiện đạt 13,6 tỷ USD, giảm 5,3%; vải đạt 12,2 tỷ USD, tăng 4,2%; sắt thép đạt 8,9 tỷ USD, giảm 1,9%; chất dẻo đạt 8,2 tỷ USD, giảm 1,1%; ô tô đạt 6,8 tỷ USD, tăng 40,4%; sản phẩm chất dẻo đạt 5,9 tỷ USD, tăng 9,7%; kim loại thường đạt 5,9 tỷ USD, giảm 12,5%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 11 tháng năm 2019, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 212,1 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 91,3% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu; nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 20,2 tỷ USD, tăng 11,6% và chiếm 8,7% (tăng 0,3 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 11 tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 68,7 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 43,6 tỷ USD, tương đương cùng kỳ năm trước; thị trường ASEAN đạt 29,6 tỷ USD, tăng 1,7%; Nhật Bản đạt 18,1 tỷ USD, tăng 3,5%; thị trường EU đạt 13,4 tỷ USD, tăng 6,1%; Hoa Kỳ đạt 13 tỷ USD, tăng 11,3%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Mười xuất siêu 1,86 tỷ USD[11]; đẩy mức xuất siêu 10 tháng lên 9 tỷ USD; tháng Mười Một ước tính xuất siêu 100 triệu USD. Ước tính chung 11 tháng năm 2019 xuất siêu 9,1 tỷ USD[12], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 23,5 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 32,6 tỷ USD.