Sửa Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt để điều tiết tiêu dùng phù hợp
Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) có nhiều quy định mới nhằm điều tiết tiêu dùng phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong xã hội và định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường.
Góp phần điều tiết tiêu dùng
Tại phiên họp sáng 22/11 của Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã trình bày Tờ trình về dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi). Theo Phó Thủ tướng, cần thiết ban hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện chính sách thu theo hướng mở rộng cơ sở thuế; sửa đổi, bổ sung để điều tiết tiêu dùng phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong xã hội và định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe của Nhân dân, bảo vệ môi trường.
Dự án Luật cũng sửa đổi, bổ sung để đáp ứng những yêu cầu từ thực tiễn phát sinh, tạo môi trường pháp luật thống nhất và đồng bộ áp dụng trong nền kinh tế, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành. Đồng thời, phù hợp với xu hướng cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt của các nước.
Trong đó, đối với mặt hàng thuốc lá theo quy định của Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá, Dự thảo Luật giữ nguyên mức thuế suất 75% và bổ sung mức thuế tuyệt đối theo lộ trình tăng từng năm trong giai đoạn từ năm 2026 đến năm 2030. Qua đó, góp phần đạt mục tiêu giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá trong nhóm nam từ 15 tuổi trở lên xuống dưới 36% trong giai đoạn 2026 – 2030 theo Chiến lược quốc gia về phòng, chống tác hại của thuốc lá và hướng tới đạt tỷ trọng thuế trên giá bán lẻ thuốc lá theo khuyến nghị của WHO (75%) với 02 phương án, trong đó Chính phủ nghiêng về phương án 2.
Theo đó, đối với thuốc lá điếu là 5.000 đồng/bao (từ năm 2026), 6.000 đồng/bao (từ năm 2027), 7.000 đồng/bao (từ năm 2028), 8.000 đồng/bao (từ năm 2029), 10.000 đồng/bao (từ năm 2030). Đối với xì gà là 50.000 đồng/điếu (từ năm 2026), 60.000 đồng/điếu (từ năm 2027), 70.000 đồng/điếu (từ năm 2028), 80.000 đồng/điếu (từ năm 2029), 100.000 đồng/điếu (từ năm 2030). Đối với thuốc lá sợi, thuốc lào hoặc các dạng khác dùng để hút, hít, nhai, ngửi, ngậm là 50.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2026), 60.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2027), 70.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2028), 80.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2029), 100.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2030).
Theo Phó Thủ tướng, lộ trình tăng mức thuế tuyệt đối tại dự thảo Luật đã được cân nhắc tính toán trên cơ sở các yếu tố như giá thuốc lá tại Việt Nam đang ngày càng rẻ so với thu nhập, dẫn đến sức mua thuốc lá tăng; Gánh nặng chi phí y tế liên quan đến bệnh tật do thuốc lá gây ra... Theo Phương án 2, tỷ lệ hút thuốc ở nam giới giảm từ 42,1% (2025) xuống còn 39,7% vào năm 2026 và đến năm 2030 giảm xuống còn 38,5%. Tỷ trọng thuế trên giá bán lẻ tăng từ 36% (2025) lên 52,4% vào năm 2026 và đến năm 2030 tăng lên 59,4%. Như vậy, phương án này có khả năng giảm tiêu thụ nhanh hơn, sớm hơn và ở mức độ lớn hơn.
Đối với mặt hàng rượu, bia, Dự thảo quy định thuế suất theo tỷ lệ phần trăm tăng theo lộ trình từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030 để đạt mục tiêu tăng giá bán rượu, bia ít nhất 10% theo khuyến nghị tăng thuế của WHO. Trong đó, đối với mặt hàng rượu từ 20 độ trở lên, phương án 1 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 70%, 75%, 80%, 85%, 90% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030; phương án 2 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 80%, 85%, 90%, 95%, 100% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030.
Đối với mặt hàng rượu dưới 20 độ, phương án 1 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 35% lên 40%, 45%, 50%, 55%, 60% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030; phương án 2 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 35% lên 50%, 55%, 60%, 65%, 70% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030.
Đối với mặt hàng bia, phương án 1 tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 70%, 75%, 80%, 85%, 90% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030. Phương án 2 tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 80%, 85%, 90%, 95%, 100% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030.
Phó Thủ tướng cho biết, Chính phủ nghiêng về phương án 2. Theo phương án này, giá bán năm 2026 sẽ tăng khoảng 10% so với năm 2025, và các năm tiếp theo mỗi năm giá bán sẽ tăng 2-3% so với năm trước để đảm bảo giá sản phẩm tăng tương ứng theo mức độ lạm phát và gia tăng thu nhập của các năm tiếp theo. Phương án này sẽ có tác dụng giảm khả năng chi trả đối với các sản phẩm rượu, bia mạnh hơn, tác động tốt hơn trong việc giảm tỷ lệ sử dụng rượu, bia và giảm các tác hại liên quan do việc lạm dụng rượu, bia gây ra.
Đối với mặt hàng xe có động cơ dưới 24 chỗ, Dự thảo sửa đổi, bổ sung mô tả và mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng xe ô tô thân thiện với môi trường như sau: Xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện (xe nạp điện bằng hệ thống sạc điện riêng), xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng do Chính phủ quy định, xe ô tô chạy bằng khí thiên nhiên bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại.
Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung mô tả mặt hàng ô tô, quy định rõ thuế suất đối với xe ô tô pick-up chở người thuộc nhóm xe ô tô chở người và xe bốn bánh chở người có gắn động cơ từ 9 chỗ trở xuống. Áp dụng thuế suất phù hợp (bằng 60% mức thuế suất áp dụng cho xe chở người) đối với xe ô tô pick-up chở hàng cabin kép, xe ô tô tải VAN có từ hai hàng ghế trở lên.
Đối với nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml, Dự thảo quy định mức thuế suất là 10% do đây là mặt hàng mới bổ sung vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Nghiên cứu mức thuế cao hơn với nước giải khát
Thẩm tra Dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách Lê Quang Mạnh cho rằng, lộ trình tăng thuế đối với các mặt hàng thuốc lá theo phương án 2 để góp phần tăng tính hiệu quả của chính sách trong định hướng tiêu dùng và phù hợp với xu hướng cải cách thuế của các nước.
Về việc tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia theo lộ trình, đa số ý kiến đồng tình với việc tăng thuế như phương án 2. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc tính toán, đề xuất mức tăng hợp lý để có thể đạt được các mục tiêu đặt ra.
Đa số ý kiến Ủy ban cũng nhất trí với đề xuất quy định thuế suất thấp hơn đối với các loại xe sử dụng năng lượng thân thiện với môi trường để giảm phát thải khí nhà kính, phù hợp với xu thế của quốc tế. Có ý kiến đề nghị thuế suất đối với xe chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện không có hệ thống sạc điện riêng (HEV) bằng 70% xe chạy bằng xăng, dầu cùng loại; xe chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện có hệ thống sạc điện riêng (PHEV) bằng 50% xe chạy bằng xăng, dầu cùng loại.
Về thuế suất đối với mặt hàng xe ô tô pick-up chở hàng cabin kép, đa số ý kiến cho rằng, việc nâng thuế suất như đề nghị của Chính phủ là phù hợp để điều tiết hạn chế sử dụng phương tiện giao thông, góp phần bảo đảm việc sử dụng xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng theo đúng mục tiêu thiết kế xe, tránh lợi dụng chính sách và bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Cũng có ý kiến đề nghị giữ nguyên mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt theo Luật hiện hành, trường hợp tăng thuế cần có lộ trình phù hợp.
Về quy định đối với mặt hàng nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam, có hàm lượng đường trên 5g/100ml, đa số ý Ủy ban Tài chính Ngân sách kiến nhất trí với đề xuất của Chính phủ về việc áp dụng mức thuế suất 10% đối với mặt hàng này.
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, mức thuế suất 10% là khá thấp, có thể không đủ để tác động, thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân, dẫn đến không đạt được mục tiêu đặt ra trong ban hành chính sách. Do đó, cần cân nhắc để đề xuất mức thuế cao hơn để đạt được mục tiêu điều tiết tiêu dùng, bảo vệ sức khỏe người dân.