Sửa Luật Thuế Thu nhập cá nhân:

Đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, hỗ trợ tốt hơn cho người dân

Thùy Linh

Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã trải qua nhiều lần sửa đổi kể từ khi có hiệu lực vào năm 2009, góp phần quan trọng vào điều tiết thu nhập và tăng nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Luật cũng bộc lộ nhiều bất cập, đòi hỏi cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội. Bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội tư vấn thuế đã có những trao đổi cụ thể xung quanh vấn đề này.

Bà Nguyễn Thị Cúc.
Bà Nguyễn Thị Cúc.

Phóng viên: Thưa bà, Luật Thuế TNCN hiện hành đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Bà đánh giá như thế nào về những đóng góp của chính sách thuế này trong hơn 16 năm qua?

Bà Nguyễn Thị Cúc: Luật Thuế TNCN chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 và đã được sửa đổi vào các năm 2012, 2014 cùng với một số nghị quyết điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh. Qua hơn 16 năm thực hiện, thuế TNCN đã phát huy vai trò quan trọng trong việc điều tiết thu nhập, góp phần giảm bất bình đẳng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Với sự tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của người dân cũng có nhiều thay đổi. Số thu từ thuế TNCN đã tăng đáng kể, từ 63 tỷ đồng năm 2008 lên gần 190.000 tỷ đồng năm 2024, chiếm gần 12% tổng thu nội địa.

Điều này cho thấy chính sách thuế không chỉ giúp ngân sách nhà nước có thêm nguồn lực để thực hiện các chính sách an sinh xã hội mà còn góp phần quản lý thu nhập, minh bạch hóa nguồn thu của cá nhân.

Phóng viên: Mặc dù có nhiều điểm tích cực, nhưng cũng có ý kiến cho rằng Luật Thuế TNCN hiện vẫn còn những bất cập, đặc biệt là trong cách xác định thu nhập chịu thuế. Quan điểm của bà về vấn đề này như thế nào?

Bà Nguyễn Thị Cúc: Thực tế cho thấy, quá trình thực thi Luật Thuế TNCN hiện hành vẫn tồn tại một số bất cập. Có thể kể đến như: cơ sở thuế, đối tượng chịu thuế, thu nhập chịu thuế, tính thuế, thu nhập miễn thuế; phương pháp tính thuế và thuế suất. Riêng đối với thu nhập từ tiền lương tiền công còn liên quan đến mức giảm trừ gia cảnh, các khoản giảm trừ khác làm cơ sở xác định thu nhập tính thuế, biểu thuế lũy tiến từng phần. Những tồn tại đó gây nên sự thiếu minh bạch, thiếu bình đẳng về điều tiết thu nhập của cá nhân cũng như mức, tỉ lệ điều tiết tương ứng với các Luật thuế khác, đặc biệt là Luật Thuế TNDN. Thực trạng đó có phần gây khó khăn trong quản lý thuế TNCN, tính tuân thủ chưa cao.

Ví dụ, thu nhập từ tiền thưởng của người lao động trong doanh nghiệp bị đánh thuế, nhưng quà tặng hay tiền thưởng cho cá nhân ngoài doanh nghiệp lại không chịu thuế. Hay như tiền nhuận bút, tiền giảng dạy chịu thuế nhưng các khoản thưởng, biếu tặng khác thì không. Ngoài ra, mức thuế suất với thu nhập từ hoa hồng môi giới cũng có sự chênh lệch đáng kể giữa cá nhân có đăng ký kinh doanh và cá nhân không đăng ký kinh doanh.

Bên cạnh đó, nhiều khoản phúc lợi dành cho người lao động cũng chưa có quy định rõ ràng. Chẳng hạn, chi phí thuê địa điểm tập luyện thể thao cho tập thể không chịu thuế, nhưng nếu ghi tên cá nhân thì lại bị đánh thuế. Những điểm này tạo ra sự bất hợp lý, cần được điều chỉnh trong lần sửa đổi tới.

Phóng viên: Một trong những vấn đề được người dân quan tâm nhiều nhất hiện nay là mức giảm trừ gia cảnh. Theo bà, mức giảm trừ này có còn phù hợp không, và cần điều chỉnh ra sao?

Bà Nguyễn Thị Cúc: Mức giảm trừ gia cảnh luôn là vấn đề quan trọng khi xác định thu nhập tính thuế. Hiện nay, mức giảm trừ gia cảnh áp dụng từ năm 2020 là 11 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và 4,4 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc. Tuy nhiên, sau 4 năm áp dụng, mức này được đánh giá là không còn phù hợp với tốc độ trượt giá và chi phí sinh hoạt thực tế.

Bên cạnh đó, điều kiện xác định người phụ thuộc cũng cần được xem xét lại. Hiện tại, nếu người phụ thuộc có thu nhập trên 1 triệu đồng/tháng thì không được tính giảm trừ. Điều này dẫn đến bất cập: nếu người phụ thuộc không có thu nhập thì được giảm trừ 4,4 triệu đồng/tháng, nhưng nếu có thu nhập chỉ hơn 1 triệu đồng/tháng thì lại không được giảm trừ gì. Đây là một điểm bất hợp lý cần điều chỉnh để đảm bảo tính công bằng.

Tôi cho rằng, cần nghiên cứu nâng mức giảm trừ gia cảnh lên mức hợp lý hơn, phù hợp với mức lương tối thiểu, GDP bình quân đầu người và chỉ số giá tiêu dùng để đảm bảo đời sống cho người nộp thuế trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế.

Phóng viên: Vậy theo bà, trong lần sửa đổi Luật Thuế TNCN sắp tới, cần tập trung vào những nội dung nào để đảm bảo công bằng và nâng cao hiệu quả quản lý thuế?

Bà Nguyễn Thị Cúc: Việc sửa đổi Luật Thuế TNCN là cần thiết để khắc phục các bất cập hiện nay và phù hợp với chiến lược cải cách thuế đến năm 2030. Theo tôi, có một số điểm quan trọng cần tập trung trong quá trình sửa đổi. Trước hết, cần rà soát lại cơ cấu thuế suất và mức thuế để đảm bảo sự phù hợp với mức thu nhập và khả năng chi trả của người dân, đồng thời tránh tạo gánh nặng thuế quá lớn cho người lao động.

Việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo hướng linh hoạt hơn là rất cần thiết. Cách điều chỉnh có thể căn cứ vào tỷ lệ trượt giá hoặc mức thu nhập bình quân để đảm bảo sự kịp thời và hợp lý. Ngoài ra, cần làm rõ các khoản thu nhập chịu thuế và không chịu thuế nhằm đảm bảo tính công bằng giữa các nhóm đối tượng, đồng thời ngăn chặn tình trạng né thuế hoặc sự thiếu minh bạch trong kê khai thu nhập cá nhân.

Bên cạnh các điều chỉnh về chính sách thuế, quy trình quyết toán thuế cũng cần được đơn giản hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, giảm thiểu các thủ tục hành chính phức tạp. Cuối cùng, việc tăng cường quản lý thu nhập từ nền kinh tế số cũng là một yêu cầu cấp thiết. Những nguồn thu nhập từ kinh doanh thương mại điện tử, đầu tư chứng khoán hay hoa hồng môi giới cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo mọi khoản thu nhập đều được đánh thuế một cách công bằng và minh bạch.

Tôi hy vọng rằng, với những điều chỉnh hợp lý, Luật Thuế TNCN sẽ ngày càng công bằng hơn, vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, vừa hỗ trợ tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế.

Phóng viên: Xin cảm ơn bà đã chia sẻ những chia sẻ của bà!