Tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đang là vấn đề được các nhà hoạch định chính sách, nhà quản trị ngân hàng và nhà đầu tư quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là vấn đề cấu trúc sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Vậy cấu trúc sở hữu, cụ thể là sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài và sở hữu thể nhân tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam. Thông qua khảo sát dữ liệu của 30 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2002 – 2017, bài viết phân tích tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, từ đó đưa ra một số gợi ý nhằm góp phần làm cơ sở cho việc thực hiện tái cấu trúc ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
Cơ sở lý luận
Cho đến nay, phần lớn các nghiên cứu chủ yếu tìm thấy mối tương quan âm giữa sở hữu nhà nước và hiệu quả ngân hàng, đặc biệt tại các thị trường mới nổi có các nghiên cứu như Barth cùng cộng sự (2004), La Porta cùng cộng sự (2002), Hasan và Marton (2003), Jemric và Vujcic (2002), Weill (2003), Micco cùng cộng sự (2007), Lin và Zhang (2009), Cornett cùng cộng sự (2010). Đặc biệt, nghiên cứu Micco cùng cộng sự (2007) đã tìm thấy nhiều kết quả khác nhau ở các nhóm quốc gia khác nhau.
Đối với các quốc gia đang phát triển, các ngân hàng có sở hữu nhà nước có khả năng sinh lợi thấp hơn và chi phí cao hơn so với các ngân hàng tư nhân khác. Cụ thể:
- Sở hữu nhà nước và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: Lý thuyết chi phí đại diện, xuất phát từ bất cân xứng thông tin, sở hữu nhà nước cũng làm tăng chi phí đại diện, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh. Lập luận này cho rằng các chi phí đại diện phát sinh do cổ đông nhà nước được đại diện bởi một vài cá nhân, các cá nhân này chỉ điều hành chứ không sở hữu nên ít nỗ lực trong việc tạo ra hiệu quả kinh doanh. La Porta cùng cộng sự (2002), Jemric và Vujcic (2002), Hasan và Marton (2003), Weill (2003), Barth cùng cộng sự (2004), Micco cùng cộng sự (2007), Lin và Zhang (2009), Cornett cùng cộng sự (2010) và một số nghiên cứu thực nghiệm khác tìm thấy mối tương quan âm giữa sở hữu nhà nước và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Sở hữu nước ngoài và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, sở hữu nước ngoài tại các quốc gia đang phát triển tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nghiên cứu trực tiếp trên mẫu các ngân hàng thương mại sử dụng dữ liệu từ 1996 đến 1998, Mathieson và Schinasi (2000) đã tìm thấy tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng nước ngoài cao hơn các ngân hàng thương mại nội địa hoạt động ở Hungary, Ba Lan và Cộng hòa Séc. Majnoni cùng cộng sự (2003) kết luận, các ngân hàng thương mại nước ngoài có khả năng sinh lợi cao hơn các ngân hàng thương mại nội địa. Xem xét thêm tác động của tăng trưởng kinh tế lên mối tương quan giữa sở hữu nước ngoài và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại, Demirguc-Kunt và Huizinga (1999) cung cấp bằng chứng cho thấy, ở các nước phát triển, các ngân hàng thương mại nước ngoài có khả năng sinh lợi thấp hơn các ngân hàng thương mại nội địa, trong khi điều ngược lại xảy ra ở các nước đang phát triển khi mà các ngân hàng thương mại nước ngoài lại có xu hướng sinh lợi tốt hơn các ngân hàng thương mại nội địa.
- Sở hữu thể nhân và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: Chủ sở hữu là thể nhân thường chỉ đơn thuần theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Các ngân hàng thương mại có sở hữu thể nhân sẽ quan tâm, lựa chọn đầu tư vào các lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao hơn và rủi ro thấp hơn các ngân hàng thương mại có sở hữu nhà nước. Bên cạnh đó, cổ đông thể nhân sẽ trực tiếp quản lý, sử dụng dụng đồng vốn của mình, trực tiếp chịu tổn thất rủi ro phát sinh nên họ sẽ thận trọng hơn trong các quyết định đầu tư cũng như thực hiện giám sát chặt chẽ hơn, sở hữu thể nhân có mối tương quan dương đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Ngược lại, khi một nhóm cổ đông nắm giữ quyền điều hành hoạt động kinh doanh (nhóm cổ đông nội bộ) có được nhiều thông tin hơn nhóm cổ đông không trực tiếp điều hành (cổ đông bên ngoài) thì sở hữu thể nhân tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh xảy ra. Nhóm cổ đông nội bộ thực hiện những hành vi lợi ích nhóm, không minh bạch thông tin. Như vậy, trong trường hợp này, sở hữu thể nhân sẽ làm gia tăng bất cân đối thông tin, làm tăng chi phí đại diện và cuối cùng là làm giảm hiệu quả họat động kinh doanh.
Với các kết quả nghiên cứu giữa các nhóm quốc gia khác nhau, bài viết góp phần bổ sung thêm thực nghiệm về tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Từ năm 2007 đến nay, hệ thống NHTM Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ về quy mô, đa dạng về hình thức sở hữu. Trình độ quản lý theo đó cũng được nâng lên để thích ứng môi trường kinh doanh và hoạt động kinh doanh an toàn của hệ thống. Đặc biệt là việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Chính phủ về cổ phần hóa và tái cấu trúc hệ thống NHTM đã làm thay đổi mạnh mẽ cấu trúc sở hữu của NHTM Việt Nam. Sở hữu tư nhân và sở hữu nước ngoài được nâng lên đáng kể, tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các NHTM giảm xuống.
Nghiên cứu dữ liệu của 30 NHTM Việt Nam giai đoạn 2002 – 2017, nhóm tác giả đề xuất nên mô hình nghiên cứu sau:
ROAit = α0 + α1 GOEit + α2 FOEit + α3 IOEit + α4 INFit + α5 GDPit + α6 LOEit + α7 LODit + εit
Mô hình nghiên cứu này được xây dựng dựa trên các nghiên cứu của Mico và cộng sự (2007), Lin và Zhang (2009), Lensink và Naaborg (2007); đồng thời, bổ sung một số yếu tố cho phù hợp điều kiện của hệ thống NHTM Việt Nam, với các biến được đề cập tại Bảng 1.
Bài viết sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để ước lượng hệ số tương quan các biến theo các mô hình hồi quy dữ liệu gộp (Pooled), mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM); Thực hiện các kiểm định để lựa chọn mô hình thích hợp (F-test; Hausman test); Thực hiện kiểm định phương sai thay đổi (Brush pagan test), kiểm định tự tương quan (Wooldridge test). Bên cạnh đó, bài viết còn sử dụng phương pháp bình phương tổng quát nhỏ nhất (GLS) để ước lượng hệ số tương quan các biến theo mô hình đã chọn, đồng thời khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan.
Kết quả nghiên cứu
Thống kê mô tả
Kết quả thống kê mô tả mẫu cho thấy, độ lệch chuẩn của mẫu tương đối lớn, nguyên nhân là do các ngân hàng được chọn mẫu có quy mô và các đặc điểm khác nhau, nên giá trị trung bình của sở hữu nhà nước có giá trị lớn nhất là 33%. Điều này cho thấy, đặc điểm kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động của NHTM Việt Nam rất lớn.
Tương quan biến trong mô hình
Phân tích ma trận tương quan biến thấy rằng, các biến độc lập, biến kiểm soát có trị tuyệt đối của hệ số tương quan lớn nhất là 0.509 < 0.8. Theo đó, có thể kết luận rằng, không có sự đa cộng tuyến hoàn hảo và mức độ đa công tuyến không đáng kể giữa các biến đơn với nhau.
Nhân tử phóng đại phương sai
Phân tích bảng tổng hợp nhân tử phóng đại phương sai thấy rằng, giá trị nhân tử phóng đại lớn nhất của biến là 2.08 và giá trị nhân tử phóng đại trúng bình là 1.41, đều nhỏ hơn 10. Kết luận rằng, không bị đa công tuyến giữa một biến với nhóm biến còn lại.
Kết quả phân tích hồi quy
Thực hiện hồi quy theo mô hình Pooled OLS và mô hình FEM, sau đó thực hiện kiểm định F để chọn mô hình phù hợp giữa 2 mô hình Pooled và FEM. Kết quả cho thấy F=0.0000<5%, nên quyết định chọn mô hình FEM sẽ phù hợp hơn.
Sau khi hồi quy theo mô hình REM, nhóm nghiên cứu thực hiện kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình phù hợp giữa 2 mô hình FEM và REM. Kết quả có được là P-value = 0.0002 < 5%, nên quyết định chọn mô mình FEM sẽ tốt hơn cho mẫu nghiên cứu.
Kết quả kiểm định phương sai thay đổi và kiểm định tự tương quan (Breusch pagan test, Breusch-Godfrey test) dựa trên kết quả hồi quy của theo FEM. Cả 2 kiểm định này đều cho kết quả P-Value = 0.0000 < 5%, nên kết luận mô hình bị tự tương quan và bị phương sai thay đổi. Để khắc phục 2 nhược điểm này, nhóm tác giả sử dụng phương pháp ước lượng GLS để thực hiện hồi quy, đồng thời khắc phục nhược điểm của mô hình.
Kết quả hồi quy theo GLS
Kết quả hồi quy bằng phương pháp GLS, đồng thời khắc phục lỗi, cho kết quả như sau:
- Biến GOE có tương quan âm với ROA, hệ số tương quan là α1 = – 0.40306%, mức ý nghĩa là 99%.
- Biến FOE có tương quan dương với ROA, hệ số tương quan là α2 = 0.64173%, mức ý nghĩa là 95%.
- Biến IOE không có ý nghĩa thống kê với ROA.
Kết luận
Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu đối với hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam, cụ thể là nghiên cứu tác động của 3 loại hình sở hữu quan trọng tại NHTM Việt Nam gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài và sở hữu thể nhân tác động đến tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản của NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cấu trúc sở hữu có tác động khác nhau đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam, cụ thể:
- Sở hữu nhà nước tương quan ngược chiều với hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, với mức ý nghĩa 99%, khi tỷ lệ sở hữu nhà nước tăng 1%, thì tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản giảm trung bình 0.403%.
Kết quả này trùng hợp với lý thuyết mục tiêu chính trị Boycko cùng cộng sự (1996), lý thuyết chi phí đại diện của Jensen & Meckling (1976). Kết quả này cũng phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam khi các ngân hàng có sở hữu nhà nước đang phải thực hiện một số nhiệm vụ cho Chính phủ, không đơn thuần kinh doanh với mục tiêu là tối đa lợi nhuận.
- Sở hữu nước ngoài tương quan cùng chiều với hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, với mức ý nghĩa 95%, khi tỷ lệ sở hữu nước ngoài tăng 1%, thì tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản tăng trung bình 0.642%. Kết quả này trùng hợp với lý thuyết về lợi thế toàn cầu của Buch (1997), lý thuyết bất cân xứng thông tin của Gillan và Starks (2003).
Kết quả này cũng phù hợp với điều kiện thị trường mới nổi như Việt Nam khi các nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển giao công nghệ, cải tiến chất lượng sản phẩm, tăng cường giám sát làm giảm cả chi phí hoạt động và chi phí đại diện và cuối cùng là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Đối với sở hữu tư nhân, kết quả nghiên cứu chưa tìm thấy mối tương quan với hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Hàm ý về chính sách
Từ các kết quả nghiên cứu đã phân tích ở trên, nhóm nghiên cứu đưa ra một số gợi ý về chính sách đối với các nhà quản trị NHTM và các cơ quan quản lý nhà nước như sau:
Thứ nhất, cần tăng tỷ lệ sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM Việt Nam: Theo Nghị định số 01/2014/NĐ-CP của Chính phủ, thì tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài hiện nay không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam và tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng trong nước không được vượt quá 30%.
Hiện nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài chưa hẳn thấy được sức hấp dẫn của NHTM Việt Nam, bởi vì tỷ lệ sở hữu dành cho các nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam hiện nay tối đa chỉ ở mức 30%. Tỷ lệ sở hữu thấp, nên quyền can thiệp vào quá trình quản lý hoạt động kinh doanh của những nhà đầu tư nước ngoài có phần hạn chế. Thực tế có một số trường hợp sau một thời gian mua vốn, các nhà đầu tư nước ngoài đã thoái vốn khỏi NHTM Việt Nam. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM, Chính phủ cần cho phép nâng cao tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại NHTM lên mức trên 30% như hiện nay.
Thứ hai, cần có lộ trình phù hợp trong việc mở rộng sở hữu nước ngoài tại NHTM Việt Nam: Lợi ích về hiệu quả hoạt động kinh doanh khi tăng sở hữu nước ngoài trong NHTM Việt Nam đã được làm rõ, tuy nhiên, cần tính toán lộ trình thực hiện sao cho phù hợp để đem lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế.
Thứ ba, giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các NHTM nhà nước: Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi giảm sở hữu nhà nước sẽ nâng cao hiệu quả hiệu quả kinh doanh của NHTM, do đó Chính phủ nên đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thiện pháp luật, tạo tiền đề đẩy nhanh lộ trình thoái vốn nhà nước tại các NHTM và giảm dần tỷ lệ sở hữu nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM Việt Nam. Quyết định số 986/QĐ-TT ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: Trong giai đoạn 2018-2020, các NHTM nhà nước đảm bảo tỷ lệ sở hữu nhà nước tối thiểu 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; Giai đoạn 2021-2025, các NHTM có vốn nhà nước đảm bảo tỷ lệ sở hữu nhà nước ở mức 51% (Agribank có quy định riêng).
Thứ tư, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các NHTM: Tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật theo nguyên tắc thị trường, hạn chế can thiệp bằng biện pháp hành chính. Không phân biệt ngân hàng giữa NHTM nhà nước và NHTM cổ phần. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào việc quản trị kinh doanh của từng ngân hàng như quy định giới hạn tăng dư nợ tín dụng, quy định lãi suất; Giao quyền tự chủ lớn hơn cho các NHTM nhà nước, song song với đó là tăng cường pháp chế, tạo nên môi trường kinh doanh bình đẳng, an toàn để thu hút các nhà đầu tư cải thiện cấu trúc sở hữu NHTM.
Tài liệu tham khảo:
1. Anstoniadis, I., Lazarides, T., & Sarrianides, N. (2010), Ownership and performance in the Greek banking sector, In International Conference on Applied Economics (pp. 11-21);
2. Barry, T. A., Lepetit, L., & Tarazi, A. (2011), Ownership structure and risk in publicly held and privately owned banks, Journal of Banking & Finance, 35(5), 1327-1340;
3. Iannotta, G., Nocera, G., & Sironi, A. (2007), Ownership structure, risk and performance in the European banking industry, Journal of Banking & Finance, 31(7), 2127-2149;
4. Kiruri, R. M., & Olkalou, K. (2013), The effects of ownership structure on bank profitability in Keya, European Journal of Management Sciences and Economics, 1(2), 116-127;
5. La Porta, R., Lopez‐de‐Silanes, F., & Shleifer, A. (2002), Government ownership of banks, The Journal of Finance, 57(1), 265-301;
6. Lensink, R., & Naaborg, I. (2007), Does foreign ownership foster bank performance?, Applied Financial Economics, 17(11), 881-885;
7. Lin, X., & Zhang, Y. (2009), Bank ownership reform and bank performance in China. Journal of Banking & Finance, 33(1), 20-29;
8. Rokhim, R., & Susanto, A.P. (2013), The increase of foreign ownership and its impact on the performance, competition and risk in the Indonesian banking industry, Asian Journal of Business and Accounting, 6(2), 137-153;
9. Sapienza, P. (2004), The effects of government ownership on bank lending, Journal of Financial Economics, 72(2), 357-384.