Tác động của dịch Covid-19 đến kinh tế Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ
Khởi phát từ cuối năm 2019, tại Vũ Hán (Trung Quốc), đến tháng đầu năm 2020, dịch Covid-19 đã lan rộng ra hầu hết các quốc gia trên thế giới, ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế thế giới. Kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi những tác động xấu, các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh bị suy giảm mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe doanh nghiệp và đời sống người dân. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã quyết liệt vào cuộc bằng cả hệ thống chính trị, nhằm giảm thiểu những tác động xấu từ dịch Covid-19, phục hồi sản xuất kinh doanh. Bài viết này, khái quát những tác động của dịch Covid-19 đến kinh tế Việt Nam và tập trung đánh giá vai trò của chính sách tiền tệ, điều hành lãi suất ứng phó trong đại dịch.
Tác động của dịch Covid-19 đến kinh tế Việt Nam
Đại dịch Covid-19 được đánh giá là cú sốc cung nghiêm trọng nhất trên toàn cầu kể từ Thế chiến thứ 2 đến nay. Nền kinh tế Việt Nam đang có độ mở lớn nên không thể tránh khỏi những tác động từ đại dịch và việc chủ động xây dựng một chiến lược ứng phó hữu hiệu với các cú sốc như thế này là đòi hỏi bắt buộc.
Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia trên thế giới, hiện nay đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, gây gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu chuyển thương mại, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đã tác động trực tiếp đến các ngành xuất, nhập khẩu, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú, ăn uống, y tế, giáo dục, lao động, việc làm; nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể, tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô...
GDP quý I/2020 chỉ tăng 3,82%, là mức thấp nhất trong 10 năm gần đây. Hầu hết các hoạt động kinh tế đều suy giảm, chỉ số sản xuất công nghiệp, doanh thu bán lẻ và dịch vụ, vốn đầu tư toàn xã hội, nhập khẩu và tín dụng mặc dù vẫn tăng trưởng nhưng ở mức thấp; vốn FDI đăng ký và thực hiện đều tăng trưởng âm. Quý I/2020 là quý đầu tiên có nhiều ngành tăng trưởng âm, với mức sụt giảm lớn như: nông nghiệp (-1,17%); khai khoáng (-3,18%); lưu trú, ăn uống (-11%); vận tải, kho bãi (-0,9%); hoạt động hành chính (-3,5%). Tổng cầu suy giảm mạnh từ cả đầu tư, tiêu dùng nội địa và nhu cầu hàng hóa của thế giới. Cầu nội địa và quốc tế đều bị kìm hãm bởi các biện pháp đóng cửa quốc gia, giãn cách xã hội, cấm ra khỏi nhà, cách ly, phong tỏa. Toàn bộ hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc gia và thế giới, đồng thời giảm tốc đột ngột làm cho cơ hội, chính sách chuyển hướng giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài không phát huy tác dụng ngắn hạn. Đáng chú ý, hai động lực quan trọng nhất của tăng trưởng là đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài đều suy yếu. Sự gia tăng mạnh mẽ của đầu tư thuộc vốn ngân sách nhà nước (NSNN) cho thấy Chính phủ đã chủ động thực hiện các chính sách chống chu kỳ, đẩy mạnh đầu tư công để hạn chế đà suy giảm kinh tế, nhưng giải ngân đầu tư công còn chậm và không lớn để bù đắp cho sự sụt giảm của đầu tư tư nhân và FDI. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ quý I/2020 chỉ tăng 4,7% (chưa trừ yếu tố tăng giá) thấp hơn rất nhiều so với mức tăng 9% vào quý I/2019. Đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây…
Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 80,6% tổng mức, tăng nhẹ (0,4%) do hình thức mua sắm trực tuyến được người tiêu dùng ưa chuộng trong thời gian gần đây. Thu hút khách quốc tế giảm 37,8%. Các hoạt động dịch vụ khác như vận tải, nhất là vận tải hàng không, dịch vụ lưu trú, ăn uống... cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Phát triển DN chịu tác động lớn bởi dịch bệnh, hấu hết các DN đều thận trọng trong việc đầu tư thêm vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Số lượng DN thành lập mới trong 4 tháng đầu năm chững lại, số vốn bổ sung hoặc cam kết đưa vào kinh doanh giảm so với cùng kỳ năm 2019. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN đạt khoảng 11,8 tỷ đồng, giảm 5,5% so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn tăng mạnh so với cùng kỳ (tăng 33,6%), nhất là tại các lĩnh vực: kinh doanh bất động sản; nghệ thuật, vui chơi và giải trí; dịch vụ lưu trú và ăn uống; du lịch; giáo dục và đào tạo và vận tải, kho bãi.
Ngay khi có dịch bệnh bùng phát, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, cùng với sự đồng lòng, đoàn kết của toàn dân, toàn quân, công tác phòng, chống dịch đã đạt kết quả tốt, Việt Nam đã đẩy lùi và kiểm soát được dịch bệnh. Đồng thời, đã có những chính sách kịp thời để từng bước hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn của đại dịch Covid-19; các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội đang được khôi phục; tình hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến tích cực; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo Chính phủ.
Vai trò của chính sách tiền tệ trong dịch bệnh
Ngay khi xảy ra dịch Covid-19, Chính phủ đã xác định và đưa ra hàng loạt chính sách, trong đó có chính sách tiền phải khẳng định được vai trò lưu thông “dòng máu” trong nền kinh tế, hỗ trợ DN vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất.
Trong thời kỳ dịch bệnh các chính sách ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn này là: Duy trì hoạt động của DN hạn chế tối đa tình trạng phá sản; Duy trì việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng thất nghiệp, mất thu nhập; Đảm bảo hệ thống ngân hàng - huyết mạch của nền kinh tế - duy trì được trạng thái ổn định, vận hành tốt, đủ năng lực vực dậy nền kinh tế sau dịch bệnh.
Hiện nay, hầu hết các DN hoạt động dựa vào các khoản vay được đảm bảo bằng các khoản doanh thu trong tương lai. Khi nền kinh tế bị đóng cửa, nhiều DN phải ngừng hoạt động nhưng những DN có các khoản vay vẫn phải trả nợ và lãi vay. Nếu chính sách tiền tệ, chính sách lãi vay không có sự trợ thì dễ dẫn đến một làn sóng vỡ nợ, phá sản và gây thảm họa cho thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây chính là bản chất của cú sốc cung và trong bối cảnh đó, các chính sách tiền tệ truyền thống sẽ không có tác dụng. Việc giảm lãi suất, tăng thanh khoản cũng không làm cho DN vay mượn nhiều hơn vì DN hầu như không có nhu cầu vay mượn trong thời kỳ này. Đồng thời, do sự gián đoạn của nguồn cung, nhiều DN sẽ không có doanh thu, dẫn đến mất khả năng trả nợ, khi đó thì không ngân hàng nào cho vay dù với bất kỳ lãi suất nào.
Trong bối cảnh này, chính sách tiền tệ có thể hỗ trợ thông qua việc Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ các ngân hàng thương mại cơ cấu lại các khoản nợ hiện hành cho các khách hàng (giảm lãi suất đối với các khoản nợ hiện hành, đảo nợ..); miễn giảm lãi trong thời kỳ không DN không có doanh thu.
Một sai lầm thường mắc phải khi vận dụng chính sách tiền tệ để ứng phó với dịch bệnh là nới lỏng các quy định an toàn của hệ thống tài chính để tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế (điều chỉnh về phân loại nợ, tỷ lệ an toàn vốn, các điều kiện cho vay…). Điều này trên thực tế sẽ làm suy yếu hệ thống ngân hàng, rủi ro hệ thống gia tăng, nợ xấu tăng và một vài ngân hàng yếu kém dễ dàng rơi vào tình trạng phá sản khi các doanh nghiệp vay nợ mất khả năng trả nợ, từ đó đẩy toàn bộ hệ thống vào nguy hiểm. Thêm vào đó, những diễn biến xấu của dịch bệnh có thể làm cho hàng loạt doanh nghiệp lâm vào khó khăn và nợ xấu trên bảng cân đối của các tổ chức tín dụng tăng nhanh. Điều này làm cho các ngân hàng mất khả năng thanh khoản và gây khủng hoảng hệ thống trong khi các DN cần các tổ chức tín dụng tiếp sức để phục hồi sau dịch. Do đó, để đảm bảo khả năng phục hồi của nền kinh tế, việc duy trì một hệ thống các tổ chức tín dụng lành mạnh là yêu cầu tiên quyết. Nói cách khác, trong thời kỳ dịch bệnh, các tổ chức tín dụng là những DN cần được đặc biệt bảo vệ.
Trước bối cảnh dịch bệnh và những yêu cầu đặt ra, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động ban hành các văn bản và yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) rà soát, đánh giá mức độ ảnh hưởng của dịch đối với khách hàng để xây dựng chương trình, kịch bản hành động của ngân hàng nhằm tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, tạo khuôn khổ pháp lý để các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ, hỗ trợ cho các khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các TCTD phải công khai, minh bạch các thủ tục, điều kiện đối với khách hàng; Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố thiết lập ngay đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý kịp thời, triệt để từng trường hợp DN gặp vướng mắc, và xử lý nghiêm các trường hợp thiếu trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ hỗ trợ cho DN, người dân; điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chỉ tiêu lợi nhuận phù hợp, kể cả không chia cổ tức bằng tiền mặt, để dành nguồn lực chia sẻ khó khăn, hỗ trợ khách hàng thông qua giảm mạnh lãi suất cho vay đối với khách hàng. Ngân hàng Nhà nước yêu cầu toàn hệ thống triệt để tiết giảm chi phí để có điều kiện giảm lãi suất cho vay, chia sẻ tối đa khó khăn với khách hàng; chủ động cân đối sẵn sàng nguồn vốn để đầu tư cho những phương án, dự án khả thi, phải coi cho vay mới hỗ trợ phục hồi sau dịch là yếu tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng. Các TCTD tiếp tục đơn giản hóa quy trình thủ tục nội bộ, tạo thuận lợi hơn nữa cho khách hàng vay vốn nhưng không nới lỏng, hạ thấp điều kiện tín dụng để đảm bảo chất lượng tín dụng, duy trì tính lành mạnh, an toàn của hoạt động ngân hàng trong những năm tới. Đồng thời, xây dựng quy định tái cấp vốn (tối đa 16.000 tỷ đồng) đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay người sử dụng lao động trả lương ngừng việc cho người lao động và đang lấy ý kiến các bộ, ngành liên quan.
Đặc biệt, tiếp tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành từ 0,51%/năm, giảm 0,5% trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên và tiếp tục giảm lãi suất cho vay tối đa đến 2% so với thời điểm trước dịch đối với các khoản vay cũ và khoản cho vay mới; điều hành tỷ giá phù hợp với tình hình vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ để bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời, tích cực triển khai các giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt, giảm phí giao dịch thanh toán liên ngân hàng.
Cùng với việc tập trung tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với dư nợ tín dụng đến 31/3/2020 đạt gần 4,4 triệu tỷ đồng, tăng 1,2% so với cuối năm 2019, chiếm 53,7% dư nợ nền kinh tế, các TCTD thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi và giữ nguyên nhóm nợ, hạ lãi suất dư nợ hiện hữu, cho vay mới với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất cho vay trước khi có dịch khoảng 1%-2%. Có hàng trăm ngàn khách hàng được hưởng các gói hỗ trợ với giá trị hàng ngàn tỷ đồng. Kết quả này cho thấy nỗ lực rất lớn của toàn ngành ngân hàng trong bối cảnh dịch Covid-19 gây ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế.
Lãi suất huy động của TCTD cũng liên tiếp giảm, hiện phổ biến khoảng 0,1-0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3-4,75%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng; 5,3-6,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,6-7,4%/năm ở cả ngắn, trung, dài hạn. Mặt bằng lãi suất cho vay cũng theo xu hướng giảm, riêng lãi suất cho vay lĩnh vực ưu tiên đã giảm khoảng 0,5%/năm so với cuối năm 2019. Tỷ giá và thị trường ngoại tệ về cơ bản ổn định, tâm lý thị trường không xáo trộn, nhất là cân đối cung, cầu ngoại tệ vẫn khá thuận lợi, chỉ biến động trong biên độ 1,3-1,5%. Thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Quyết định hạ lãi suất điều hành trong bối cảnh dịch bênh đã tạo môi giúp tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp tục có điều kiện hỗ trợ DN và cá nhân chịu ảnh hưởng của dịch bệnh tiếp cận nguồn vốn rẻ thông qua hạ lãi suất cho vay và giảm bớt gánh nặng tài chính cho DN, đưa hoạt động kinh doanh sản xuất trở lại trạng thái bình thường và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song song với kiềm chế lạm phát.
Việc hạ lãi suất cũng giúp thanh khoản thị trường tiền tệ được dự báo tiếp tục duy trì ở trạng thái dồi dào, mặt bằng lãi suất được duy trì ở trạng thái ổn định. Trong bối cảnh giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn nhiều nút thắt, chính sách tiền tệ được kỳ vọng sẽ hỗ trợ kịp thời trong hỗ trợ nền kinh tế. Diễn biến thị trường trong và ngoài nước còn nhiều bất ổn khó lường, trong đó ngân hàng trung ương các quốc gia duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp kỷ lục song song với nhiều giải pháp chính sách tiền tệ nới lỏng, dư địa cho điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước vẫn là khá lớn.
Có thể khẳng định, cách thức hỗ trợ thị trường, nền kinh tế qua chính sách tiền tệ thệ hiện sự kịp thời, sát với diễn biến của thị trường. Sau khi đưa ra các giải pháp quan trọng hỗ trợ như hoãn, giãn, cơ cấu lại nợ cùng với đưa ra các gói tín dụng quy mô lớn... giúp DN giảm bớt gánh nặng nợ nần, cầm cự trong giai đoạn khó khăn, thì đến thời điểm này, khi các cơ hội sản xuất kinh doanh dần mở ra, NHNN tiếp tục giảm lãi suất điều hành tạo mặt bằng lãi suất cho vay thấp hơn. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với DN, nền kinh tế. Việc hạ lãi suất chung cũng như tiếp tục gia tăng các gói tín dụng ưu đãi của ngân hàng thương mại chắc chắn có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình dần hồi phục và có thể tạo sức bật cho nền kinh tế thời gian tới..
Tài liệu tham khảo:
- Viện Đào tạo Nghiên cứu BIDV (2020), Báo cáo đánh giá tác động của dịch Covid-19 đến các ngành kinh tế Việt Nam;
- Bộ Chính trị (2020), Kết luận số 77-KL/TW về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch COVID-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước;
- Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm 2020;
- Vũ Đình Ánh (2020), Chính sách tiền tệ tín dụng ứng phó với dịch Covid-19, Tạp chí Nghiên cứu Ngân hàng số 7/2020;
- Báo Đầu tư (2020), Đặc san toàn cảnh ngân hàng năm 2020.