Nguy cơ gia tăng phòng vệ thương mại

Theo Quốc Bình/Thời nay

Việc bị các thị trường xuất khẩu siết chặt phòng vệ thương mại (PVTM), trong đó có Ấn Độ, Mỹ đang tạo ra những thách thức đáng kể cho các doanh nghiệp (DN) Việt Nam, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa (DNNVV), kìm hãm gia tăng xuất khẩu hàng hóa. Mặt khác, việc theo đuổi các vụ kiện thương mại trong thời gian dài làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định trong sản xuất, xuất khẩu của DN Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Theo Cục PVTM, Bộ Công Thương, đến nay các sản phẩm của Việt Nam bị điều tra PVTM khá đa dạng, tập trung nhiều ở các sản phẩm kim loại, nông - lâm - thủy sản và sợi. Đặc biệt, thị trường khởi xướng điều tra, áp dụng biện pháp PVTM với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đứng đầu là Mỹ, tiếp theo là: Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Liên hiệp châu Âu (EU), Canada, các nước ASEAN và một số thị trường khác. Đặc biệt, gần đây nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang bị Ấn Độ tăng cường siết chặt PVTM để bảo vệ ngành sản xuất trong nước. 

Theo thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới, Ấn Độ là quốc gia đứng đầu thế giới về số lượng các vụ việc PVTM, tới nay, đã điều tra tổng cộng 2.006 trên tổng số 7.133 vụ việc. Trong đó, Ấn Độ đã tiến hành điều tra gần 30 vụ việc đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam. Các mặt hàng bị điều tra thuộc nhiều nhóm ngành hàng khác nhau như: ván gỗ, sợi, thép, đồng, pin năng lượng mặt trời. 

Về việc Ấn Độ gia tăng điều tra PVTM đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, theo Cục trưởng PVTM Lê Triệu Dũng, do KNxuất khẩu của Việt Nam tăng rất nhanh khiến một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tạo sức ép cạnh tranh đáng kể tại thị trường Ấn Độ dẫn đến nguy cơ cao hơn phải đối diện với các vụ việc điều tra PVTM.

Mặt khác, trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 cũng có thể gây khó khăn thêm cho nhiều ngành sản xuất, vì thế buộc các ngành sản xuất Ấn Độ phải đề nghị chính phủ tăng cường các biện pháp để bảo vệ sản xuất trong nước.

Bên cạnh đó, các mặt hàng có tăng trưởng xuất khẩu nhanh, dù KN lớn hay nhỏ có thể trở thành mục tiêu bị điều tra PVTM nếu ngành sản xuất nội địa của Ấn Độ cho rằng hàng nhập khẩu gây thiệt hại nghiêm trọng cho họ. Ngoài ra, các DN đã thoát khỏi một vụ việc PVTM cũng có thể trở thành mục tiêu của một cuộc điều tra mới nhằm bảo đảm hiệu quả của các biện pháp trước đây. Vì vậy, các sản phẩm đã bị điều tra, áp dụng một trong các biện pháp PVTM vẫn có thể tiếp tục bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM khác.

Việc bị các thị trường xuất khẩu siết chặt PVTM, trong đó có Ấn Độ đang tạo ra những thách thức đáng kể cho DN Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV, làm kìm hãm gia tăng xuất khẩu hàng hóa. Mặt khác, việc theo đuổi các vụ kiện thương mại trong thời gian dài làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định trong sản xuất, xuất khẩu của DN Việt Nam.

Về lâu dài, DN khó có thể đưa ra một chiến lược xuất khẩu dài hạn. Ngay khi vụ việc PVTM được khởi xướng, các DNxuất khẩu Việt Nam đã phải đối mặt với việc đảo lộn và thay đổi kế hoạch kinh doanh, đầu tư sản xuất, chiến lược mặt hàng để đáp ứng những thay đổi mới của thị trường xuất khẩu.

Tương tự, nhiều sản phẩm xuất khẩu của DN Việt Nam sang thị trường Mỹ đang đối diện nguy cơ kiện chống bán phá giá (CBPG), chống trợ cấp (CTC). Hiện nay, Mỹ là quốc gia điều tra và áp dụng biện pháp PVTM nhiều nhất với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Tính đến năm 2020, đã có 41 vụ việc bao gồm 21 vụ điều tra CBPG, tám vụ điều tra CTC, 10 vụ điều tra chống lẩn tránh thuế PVTM và hai vụ điều tra tự vệ. Riêng năm 2020, Mỹ đã khởi xướng điều tra tám vụ việc PVTM đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, tăng gần ba lần so năm 2019.

Không chỉ vậy, khi xu thế bảo hộ đang gia tăng, một số nước có xu hướng thay đổi các thông lệ điều tra như tự khởi xướng điều tra, thay đổi phương pháp tính toán, thay đổi quy trình điều tra để bảo hộ ở mức cao cho các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới nhiều diễn biến khó lường.

Ông Lê Triều Dũng khuyến cáo, các DN Việt Nam cần lưu ý theo dõi biến động về giá và lượng xuất khẩu của mặt hàng mà xuất khẩu sang Ấn Độ để có đánh giá kịp thời. Những mặt hàng có giá xuất khẩu cạnh tranh, lượng xuất khẩu tăng nhanh sẽ có nguy cơ bị điều tra PVTM cao hơn. DN cũng có thể thông qua đối tác nhập khẩu của mình để nắm tình hình và dự báo trước khả năng bị điều tra PVTM.

Để chủ động ứng phó các vụ việc PVTM từ thị trường xuất khẩu, trong đó có Mỹ và Ấn Độ, hiện Bộ Công Thương đang triển khai cung cấp trong danh sách cảnh báo sản phẩm có nguy cơ bị điều tra PVTM, điều tra lẩn tránh thuế đăng tải định kỳ hằng quý trên trang thông tin điện tử (http://pvtm.gov.vn/) để DN có sự chuẩn bị tốt hơn khi xây dựng các phương án sản xuất, kinh doanh.

Đồng thời, Cục PVTM luôn chủ động hỗ trợ, hướng dẫn kịp thời cho DN ứng phó các vụ kiện PVTM từ nước ngoài. Các chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu đang ngày càng được mở rộng và liên kết nhiều quốc gia với nhau tác động đến các biện pháp PVTM.

Vì thế, các vụ kiện về PVTM phát sinh những xu hướng mới như kiện chùm, kiện chống lẩn tránh thuế, kiện kép... làm gia tăng số lượng các vụ kiện về PVTM. Thách thức với xuất khẩu của Việt Nam còn rất lớn khi chúng ta chưa giành được thế chủ động trong xuất khẩu hàng hóa cả về thị trường, sản phẩm, công nghệ sản xuất.

Vì vậy, theo ông Lê Triều Dũng, trong trường hợp DN mới thành lập có nhu cầu xuất khẩu các mặt hàng này sang các thị trường xuất khẩu đã bị áp thuế PVTM thì cần đề nghị nước xuất khẩu rà soát nhà xuất khẩu mới để được tính mức thuế riêng. Ngoài ra, DN cần được hỗ trợ có thể liên hệ với Cục PVTM để được tư vấn, hỗ trợ nhằm kịp thời ứng phó các vụ điều tra.