Tăng cường áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế ở Việt Nam

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 2 – Tháng 12/2019

Việc áp dụng Chuẩn mực cáo tài chính quốc tế (IFRS) nhằm cải thiện chất lượng thông tin kế toán, đảm bảo các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong việc lập báo cáo tài chính.

Việc áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế đối với Việt Nam gặp phải nhiều trở ngại về mặt ngôn ngữ, công nghệ và trình độ nhân lực.
Việc áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế đối với Việt Nam gặp phải nhiều trở ngại về mặt ngôn ngữ, công nghệ và trình độ nhân lực.

Bài viết khái quát một số điểm chính về IFRS, việc áp dụng IFRS của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời chỉ ra những khó khăn trong việc áp dụng IFRS ở Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế ở Việt Nam.

Khái quát về Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế

Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là một hệ thống các chuẩn mực do Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) - tiền thân là Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) ban hành. IASB là một tổ chức độc lập thuộc khu vực tư nhân, có trụ sở chính tại Thành phố London, Vương quốc Anh, chuyên thực hiện việc phát triển và chấp nhận việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các chuẩn mực kế toán quốc tế. IASB hoạt động dưới sự giám sát của Uỷ ban sáng lập chuẩn mực kế toán quốc tế (IASCF). IASB được thành lập từ năm 2001 để thay thế IASC do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ thành lập và phát triển từ năm 1973 đến năm 2000. Mục tiêu hoạt động chính của IASB là phát triển các chuẩn mực kế toán có chất lượng cao, thống nhất, dễ hiểu và có tính chất khả thi cao cho toàn thế giới trên quan điểm phục vụ lợi ích của công chúng; tăng cường tính minh bạch, có thể so sánh được của thông tin trong báo cáo tài chính (BCTC) và các báo cáo liên quan đến tài chính, kế toán khác, giúp những thành viên tham gia thị trường vốn thế giới và những người sử dụng BCTC đưa ra các quyết định kinh tế; xúc tiến việc sử dụng và ứng dụng nghiêm ngặt các chuẩn mực kế toán quốc tế; đem đến những giải pháp có chất lượng cao cho sự hoà hợp giữa hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia và các chuẩn mực kế toán quốc tế.

Trong những năm gần đây, việc áp dụng các IFRS đã phát triển nhanh chóng và được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. Tất cả các tổ chức có tác động quan trọng đến nền kinh tế thế giới như G20, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Hội đồng Ổn định Tài chính Quốc tế và Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán đều ủng hộ và hỗ trợ việc áp dụng IFRS trên toàn cầu.

IFRS đóng góp giá trị to lớn đối với tính bền vững của nền kinh tế toàn cầu, tạo sự minh bạch, đồng thời, giúp nâng cao trách nhiệm giải trình bằng cách giảm bớt lỗ hổng thông tin giữa nội bộ và bên ngoài công ty. Ngoài ra, IFRS giúp các DN và thị trường hoạt động hiệu quả hơn nhờ có một chuẩn mực phạm vi toàn cầu và đáng tin cậy, áp dụng cho các nền kinh tế phát triển và mới nổi. IFRS cũng hỗ trợ giảm thiểu chi phí về vốn và chi phí báo cáo.

Áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế một số nước

Australia

Australia là 1 trong những quốc gia đầu tiên áp dụng IFRS. Tuy nhiên, Hội đồng chuẩn mực kế toán của Australia (AASB) đã xem xét việc ban hành IFRS tại riêng tại quốc gia này. Australia đã có các bước chuẩn bị nhất định cho việc chuyển đổi từ chuẩn mực kế toán quốc gia sang IFRS từ năm 2002 và đã chính thức chuyển sang áp dụng IFRS từ ngày 01/01/2005. Năm 2005, AASB ban hành Chuẩn mực kế toán (A-IFRS) dựa trên cơ sở thông qua toàn bộ IFRS. Các công ty niêm yết ở Australia và tất cả loại hình còn lại, ngoại trừ những công ty rất nhỏ không niêm yết, đều phải áp dụng IFRS. So sánh giữa A-IFRS và IFRS cho thấy, AASB bỏ bớt một vài khoản mục trong IFRS, đồng thời bổ sung thêm một số khoản mục mới áp dụng phù hợp với tổ chức chính phủ hoặc tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận. Theo đó, Chuẩn mực kế toán Australia đã sở hữu, điều chỉnh cho tương thích với môi trường pháp lý và các đặc điểm riêng biệt của quốc gia mình. Như vậy mặc dù Australia chấp nhận hầu hết các chuẩn mực theo IFRS nhưng vẫn có các điều chỉnh nhất định mang đặc điểm riêng của quốc gia.

Pháp

Từ cuối thập niên 1970, Pháp đã tham gia quá trình hội tụ kế toán thông qua Liên minh châu Âu (EU). Phương thức hội tụ kế toán quốc tế của Pháp là duy trì tồn tại 3 hệ thống áp dụng cho 3 đối tượng khác nhau, trong đó việc hội tụ với chuẩn mực BCTC quốc tế IFRS chỉ diễn ra đối với báo cáo hợp nhất các công ty đại chúng. Đối với các DN không phải đại chúng, các quy định kế toán chỉ được điều chỉnh theo hướng hội tụ khi cần thiết và thích hợp. Trong giai đoạn hội tụ sâu hơn, Pháp vẫn có khuynh hướng địa phương hóa chuẩn mực quốc tế để phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của quốc gia, đặc biệt là đối với DN vừa và nhỏ. Như vậy, Pháp xây dựng hệ thống chuẩn mực theo hướng quốc tế nhưng vẫn giữ những đặc điểm riêng của quốc gia.

Trung Quốc

Trung Quốc bắt đầu thiết lập chuẩn mực kế toán từ năm 1988. Cuối năm 1992, Bộ Tài chính Trung Quốc đã bãi bỏ hệ thống kế toán truyền thống và sử dụng chuẩn mực quốc tế. Năm 2001, Trung Quốc đã ban hành 16 chuẩn mực kế toán và các quy định khác như hệ thống kế toán cho hoạt động siêu thị (ASBE). Mục đích của ASBE là so sánh thông tin tài chính, hạch toán tách biệt giữa thuế và kế toán, đảm bảo hội nhập với thực hành kế toán được chấp nhận bởi quốc tế. Tuy nhiên, trước sức ép hội nhập kinh tế thế giới, Trung Quốc đã chấp nhận xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán mới theo hướng hội tụ kế toán quốc tế trên cơ sở IFRS gồm 38 chuẩn mực kế toán có hiệu lực từ năm 2007.

Bộ Tài chính Trung Quốc (cơ quan ban hành chuẩn mực kế toán Trung Quốc) đang tiếp tục sửa đổi chuẩn mực kế toán quốc gia theo hướng phù hợp hơn với IFRS. Tuy nhiên, cơ quan này chưa thông báo bất kỳ kế hoạch nào nhằm áp dụng trực tiếp các IFRS tại Trung Quốc. Như vậy, tại Trung Quốc việc áp dụng IFRS được thực hiện thông qua quá trình ban hành và kết hợp vào hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia. Trung Quốc vẫn chưa cho phép áp dụng trực tiếp các IFRS để lập BCTC.

Những khó khăn trong áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam

Tại Việt Nam, quá trình áp dụng các IFRS còn gặp một số khó khăn như:

Tiếp cận IFRS còn hạn chế

Các đơn vị kinh doanh hiện nay chưa có nhiều điều kiện tiếp cận với các IFRS, chưa hiểu rõ nội dung của các chuẩn mực mà chỉ quen với những cách thức hạch toán kế toán truyền thống từ trước đến nay. Các DN chưa nhận thấy những ưu việt trong các IFRS.

Nguồn nhân lực nước ta hiện nay nhìn chung chưa được đào tạo chuyên sâu về IFRS, thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm trong việc thực hành IFRS, đại bộ phận kế toán viên đều chưa được đào tạo về IFRS nên sự sẵn sàng áp dụng IFRS còn hạn chế, nhiều DN có tâm lý ngại thay đổi.

Thiếu các hướng dẫn cụ thể về IFRS

Hiện nay, các hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam chỉ tập trung vào phương pháp hạch toán; chưa có nhiều chương trình tập huấn, hướng dẫn cho các DN, các cá nhân làm công tác kế toán – kiểm toán nắm bắt được rõ tinh thần của IFRS.

IFRS yêu cầu một số kỹ thuật phức tạp và thực hiện một số đánh giá mang tính chủ quan như việc thực hiện các ước tính về giá trị hợp lý khi không có giá niêm yết trên thị trường, giá trị có thể thu hồi, tổn thất tài sản của đơn vị tạo tiền và lợi thế thương mại, xác định giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai… nhưng trong bối cảnh nhiều DN Việt Nam chưa có đủ năng lực và trình độ thì việc áp dụng IFRS sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thử thách.

Nhiều trở ngại về ngôn ngữ, công nghệ

Việc áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế đối với Việt Nam gặp phải nhiều trở ngại về mặt ngôn ngữ, công nghệ và trình độ nhân lực.

Các IFRS được sử dụng bằng tiếng Anh nên cũng khó khăn đối với các DN khi tiếp cận nội dung của IFRS. Để có thể phổ biến, quảng bá rộng rãi IFRS đến công chúng, IFRS cần phải được dịch nguyên mẫu từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Tuy nhiên, việc chuyển tải chính xác các thuật ngữ chuyên môn không phải là điều dễ dàng vì người có đủ trình độ ngoại ngữ lại chưa chắc có đủ trình độ chuyên môn và ngược lại. Mặt khác, khi xảy ra tranh chấp giữa DN và kiểm toán, thanh tra… rào cản ngôn ngữ sẽ là một trong những nguyên nhân gây tranh cãi nhiều nhất.

Áp dụng IFRS đòi hỏi DN phải đầu tư nhiều vào công nghệ hiện đại để xử lý tự động nhiều nghiệp vụ phát sinh. Các DN cần thiết lập hệ thống và quy trình để đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng, tăng cường công tác quản lý, công tác báo tài chính và kiểm toán nội bộ.

IFRS chứa đựng nhiều phương diện phức tạp, điều này đồng nghĩa với việc đòi hỏi nguồn nhân lực phải được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp.

Tăng cường áp dụng chuẩn mực
báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam

Để tăng cường áp dụng IFRS tại Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp và có sự quyết tâm, kết hợp giữa các cơ quan chức năng, các DN, tổ chức kinh tế. Một số giải pháp được đề xuất như sau:

Khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu và áp dụng IFRS

Để tăng cường áp dụng IFRS ở Việt Nam, các cơ quan chức năng của Nhà nước có chính sách khuyến khích hỗ trợ các DN, tổ chức nghiên cứu và áp dụng IFRS. Bộ Tài chính cần phối kết hợp với các đơn vị tổ chức nhiều chương trình tập huấn, hướng dẫn các DN để hiểu rõ hơn IFRS và tiến hành áp dụng IFRS vào quá trình lập BCTC; Tăng cường đối thoại với các DN để khuyến khích chuyển sang áp dụng IFRS. Bên cạnh đó, đẩy mạnh các hỗ trợ kỹ thuật cần thiết để giúp DN nhanh chóng chuyển đổi sang áp dụng IFRS; đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến IFRS cho các đối tượng để xã hội hiểu về nội dung, nhận thức được lợi ích của việc áp dụng IFRS.

Xây dựng “cơ sở hạ tầng” để phục vụ cho việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế

Để tăng cường áp dụng IFRS, Bộ Tài chính cần làm tốt công tác phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, ban hành lại, hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành lại các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính theo hướng giảm thiểu sự khác biệt giữa các văn bản, xác định và phân biệt rõ phạm vi áp dụng của chuẩn mực kế toán, chính sách thuế và cơ chế tài chính, tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật của DN, cũng như nâng cao chất lượng thông tin trên BCTC để cung cấp ra công chúng.

Bên cạnh đó, nâng cao trình độ của các đối tượng liên quan, bao gồm các quy định về chất lượng đối tượng hành nghề, việc đào tạo trong quá trình làm việc, các quy định kiểm soát chất lượng kế toán. Về cơ bản hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã ban hành quy định về kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán – kiểm toán cũng như thời gian cập nhật các kiến thức. Đây là một điểm thuận lợi để triển khai các dự án nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.

Tăng cường vai trò của các cơ sở đào tạo

Các cơ sở đào tạo kế toán – kiểm toán có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu chương trình đào tạo phù hợp với thực tiễn ngành nghề. Các đơn vị này cần tích cực hơn trong quá trình xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, tích cực trao đổi và tiếp thu kinh nghiệp từ các học viên ở những quốc gia có hệ thống kế toán phát triển cũng như các tổ chức banh hành chuẩn mực quốc tế.

Các cơ sở đào tạo cần chủ động xây dựng chương trình đào tạo chuẩn về kế toán quốc tế để triển khai áp dụng trong thực tiễn; Thiết kế lại chương trình giảng dạy, tài liệu giảng dạy kế toán phù hợp và có cập nhật thường xuyên các chuẩn mực kế toán ban hành...

Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Diệu Linh (2015), Thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trong việc lập báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học Kiểm toán;
2. Phạm Hoài Hương (2010), Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng số 5(40);
3. Trần Quốc Thịnh (2014), Định hướng xây dựng hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam đáp ứng xu thế hội tụ kế toán quốc tế, Luận án tiến sỹ;
4. Một số website: http://www.ifrs.org, http://ifrsvietnam.vn, http://tapchitaichinh.vn/.