Tăng cường quản lý, sử dụng tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân
Theo Bộ Tài chính, việc xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, bổ sung các quy định về những vấn đề chưa có quy định điều chỉnh, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn để tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.
Bộ Tài chính vừa có Tờ trình số 168/TTr-BTC trình Chính phủ về ban hành Nghị định của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.
Quy định chung một trình tự, thủ tục không phù hợp với một số loại tài sản
Bộ Tài chính cho biết, sau hơn 5 năm thực hiện Nghị định số 29/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân, tổng hợp các phản ánh, kiến nghị của một số bộ, ngành, địa phương trong quá trình quản lý cho thấy, việc triển khai thực hiện văn bản nêu trên tại các bộ, ngành, địa phương đã thu được những kết quả ban đầu, song vẫn còn tồn tại, vướng mắc trong tổ chức thực hiện Nghị định.
Theo đó, vướng mắc đầu tiên mà Bộ Tài chính nêu trong Tờ trình số 168/TTr-BTC là việc xác lập xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với một số loại tài sản là không cần thiết hoặc không phù hợp với bản chất, mô hình tổ chức của đối tượng tiếp nhận tài sản như: tài sản là tiền Việt Nam, ngoại tệ do tổ chức, cá nhân trong nước hiến, biếu, tặng cho, đóng góp, viện trợ, tài trợ cho cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội; tài sản do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hiến, biếu, tăng cho, đóng góp, viện trợ, tài trợ hoặc chuyển giao theo các hình thức khác cho doanh nghiệp, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp…
Tài sản sản xác lập quyền sở hữu toàn dân bao gồm rất nhiều loại tài sản khác nhau, liên quan đến liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và pháp luật chuyên ngành như: Xử lý vi phạm hành chính, xử lý tài sản trong tố tụng hình sự, quản lý thị trường, hải quan, kiểm lâm, công an, biên phòng, tiền tệ, đầu tư, doanh nghiệp.... với các chủ thể thực hiện khác nhau. Do đó, việc tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP quy định chung một trình tự, thủ tục lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý tài sản dẫn đến phát sinh vướng mắc, không phù hợp đối với một số loại tài sản.
Chỉ rõ thêm những vướng mắc trong thực tiễn, Bộ Tài chính cho biết, trình tự, thủ tục lập, trình cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý tài sản tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP chưa phù hợp với thực tiễn của một số lĩnh vực có khối lượng phát sinh rất lớn như: quản lý thị trường, hải quan, công an, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng.
Đồng thời, Nghị định số 29/2018/NĐ-CP chưa quy định cụ thể việc xác định giá trị tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân tương ứng đối với từng loại tài sản để xác định giá khởi điểm/giá bán chỉ định/giá bán niêm yết khi thực hiện xử lý tài sản theo hình thức bán đấu giá/bán chỉ định/bán niêm yết hoặc giao, điều chuyển cho các đối tượng quản lý, sử dụng.
Ngoài ra, về quản lý, sử dụng số tiền thu được từ xử lý tài sản, theo quy định tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP thì số tiền thu được từ việc xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân được nộp vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước do cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản công làm chủ tài khoản. Tuy nhiên, chưa quy định rõ chủ tài khoản tạm giữ tại nơi xử lý tài sản hay nơi đặt trụ sở của cơ quan phê duyệt phương án xử lý tài sản….
Từ những thực tế nêu trên, việc sửa đổi Nghị định số 29/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân là cần thiết. Việc xây dựng Nghị định nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, bổ sung quy định về các vấn đề chưa có quy định điều chỉnh, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn để tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.
Đảm bảo tính đồng bộ với các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công
Bộ Tài chính nhấn mạnh ba quan điểm trong xây dựng Nghị định, bao gồm: Phù hợp với các quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và pháp luật có liên quan, cùng với đó là giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn; Đảm bảo tính đồng bộ với các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công đã được Chính phủ ban hành; Cải cách thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp thẩm quyền, cắt giảm các thủ tục hành chính không cần thiết trong việc quản lý, sử dụng, xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.
Dự thảo Nghị định đang được Bộ Tài chính xây dựng với 13 Chương và 115 Điều. Trong đó, có quy định cụ thể về xác lập quyền sở hữu toàn dân và xử lý tài sản xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với từng nhóm tài sản: quản lý tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật; bất động sản vô chủ, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, tài sản là di sản không có người thừa kế; tài sản là hàng hóa tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan; tài sản do tổ chức, cá nhân tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước Việt Nam; tài sản của quỹ xã hội, quỹ từ thiện bị giải thể; tài sản do doanhnghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam…
Liên quan đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản, dự thảo Nghị định đã bỏ quy định Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản đối với một số tài sản, cụ thể: Tài sản do tổ chức, cá nhân chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước Việt Nam là bất động sản, xe ô tô, các tài sản khác có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên/1 đơn vị tài sản chuyển giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý; tài sản do tổ chức, cá nhân chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước Việt Nam nhưng không xác định cụ thể cơ quan, tổ chức, đơn vị tiếp nhận tài sản để sử dụng.
Theo đó, thẩm quyền quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với các tài sản trên do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương, HĐND cấp tỉnh quy định.
Về phân loại tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản, Điều 3 dự thảo Nghị định quy định về các tài sản xác lập quyền sở hữu toàn dân trên cơ sở kế thừa quy định tại tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP. Trong đó, có bổ sung một số loại tài sản thuộc đối tượng xác lập sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật nhưng chưa được quy định tại Nghị định số 29/2018/NĐ-CP, gồm: tài sản thuộc về nhà nước theo quy định tại Khoản 4 Điều 218 Bộ Luật Dân sự và tài sản là hàng tạm gửi hành lý hải quan không nhận lại quy định tại khoản 6 Điều 59 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP.
Đối với tài sản thuộc về Nhà nước theo quy định tại Khoản 4 Điều 218 Bộ Luật Dân sự, cụ thể là một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ tường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
Đối với tài sản là hàng tạm gửi hành lý hải quan không nhận lại quy định tại khoản 6 Điều 59 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan, dự thảo quy định, trong thời hạn tạm gửi hành lý, nếu người xuất cảnh, nhập cảnh có văn bản từ bỏ hành lý tạm gửi hoặc quá thời hạn tạm gửi hành lý nhưng người xuất cảnh, nhập cảnh không nhận lại, thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tiền thu được từ việc thanh lý hàng hóa được nộp vào ngân sách nhà nước sau khi trừ đi các chi phí phát sinh theo quy định của pháp luật.