Tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam phát triển
Trong những năm qua, cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ở Việt Nam đã có bước tiến nhất định, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước và các yêu cầu của hội nhập quốc tế. Thực tế đó đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, khả thi để thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam phát triển bền vững.
Dành nhiều ưu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợ
Theo Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành CNHT, “CNHT là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng; sản phẩm CNHT bao gồm vật liệu, phụ tùng, linh kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho khâu lắp ráp, sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh”.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển ngành CNHT như: Luật Đầu tư năm 2014 và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đầu tư đã quy định, CNHT là lĩnh vực được đặc biệt ưu đãi đầu tư tại Việt Nam.
Các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển cũng đã được quy định tại Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế…
Để lĩnh vực CNHT ở Việt Nam tận dụng được các cơ hội trong bối cảnh mới, năm 2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT với 06 ngành nghề được hỗ trợ, ưu đãi sau: Dệt may, da giày, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo, các sản phẩm CNHT cho công nghệ cao.
Nghị định số 111/2015/NĐ-CP quy định cụ thể các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và tín dụng. Trong đó, DNNVV sản xuất sản phẩm CNHT thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển còn được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư và tiền thuê đất… Sự ra đời của Nghị định số 111/2015/NĐ-CP cùng hàng loạt thông tư, quyết định trong giai đoạn 2016-2020 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngành CNHT ở Việt Nam.
Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam có năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa-cao su kỹ thuật; săm lốp các loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới.
Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chế
Theo báo cáo của Chính phủ, số doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành CNHT đến hết năm 2018 là khoảng 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và hơn 1.500 doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu cho ngành Dệt may, da giầy (chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp của ngành chế biến, chế tạo).
Các doanh nghiệp CNHT tạo việc làm cho khoảng hơn 600.000 lao động với doanh thu thuần sản xuất kinh doanh trong năm 2019 đạt hơn 900.000 tỷ đồng, đóng góp khoảng 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo…
Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam có năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa-cao su kỹ thuật; săm lốp các loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành CNHT Việt Nam vẫn những tồn tại hạn chế như: Quy mô và năng lực của các doanh nghiệp CNHT Việt Nam còn khiêm tốn. Các sản phẩm CNHT trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện, chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm.
Cụ thể, đối với các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm phụ tùng linh kiện ôtô, phần lớn doanh nghiệp CNHT mới chỉ cung ứng sản phẩm cho lắp ráp ô-tô trong nước. Sự yếu kém của ngành CNHT là nguyên nhân chính dẫn đến giá trị gia tăng nội địa ở mức thấp của các ngành kinh tế, nhất là ngành công nghiệp chế tạo, chế biến…
Tạo thêm động lực phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Ngày 06/8/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT. Nghị quyết đặt ra mục tiêu đến năm 2025 doanh nghiệp Việt Nam có khả năng sản xuất các sản phẩm CNHT có tính cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng nội đại; chiếm khoảng 11% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp; có khoảng 1.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam trong đó, doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 30%.
Năm 2030 sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng 70% nhu cầu sản xuất, tiêu dùng nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp. Có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam.
Để đạt được những mục tiêu trên, thời gian tới cần có những giải pháp đồng bộ, khắc phục triệt để những yếu kém, từ đó thúc đẩy CNHT Việt Nam phát triển bền vững. Trong đó, theo các chuyên gia, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phát triển ngành CNHT; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT; Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình phát triển CNHT. Hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho CNHT phát triển...
Bên cạnh những giải pháp đã được đề cập ở trên, để thúc đẩy CNHT phát triển, Nhà nước cần quan tâm hiện đại hoá kết cấu hạ tầng. Việc hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ góp phần giảm bớt chi phí cho các nhà đầu tư, giúp cho hàng hoá của họ (linh kiện, vật tư, phụ tùng…) thuận lợi hơn cho việc lưu thông ở cả thị trường trong và ngoài nước…