Thị trường chứng khoán và những tiền đề cho sự phát triển bền vững
(Tài chính) Những chuyển biến lạc quan của nền kinh tế thế giới và kinh tế trong nước đã có tác động tích cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2014. Để thúc đẩy thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển ổn định, bền vững, thu hút nhiều nhà đầu tư, cơ quan quản lý sẽ tiếp tục phối hợp với các thành viên thị trường triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.
Năm 2014, kinh tế thế giới đã có nhiều dấu hiệu khả quan nhưng vẫn tiềm ẩn những rủi ro. Các dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) về mức độ hồi phục của các nền kinh tế chủ chốt trên thế giới liên tục thấp hơn các dự báo trước đó.
Trong khi đó, kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả khả quan: Tăng trưởng kinh tế đạt 5,98%, cao hơn so với mục tiêu mà Chính phủ đặt ra đầu năm (5,8%) và cao hơn mức tăng của hai năm trước đó; CPI bình quân cả năm tăng 4,09% so với năm 2013 (thấp hơn nhiều so với mục tiêu 7% mà Quốc hội giao); Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm dần, lãi suất huy động ở mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua. Lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh giảm; Dự trữ ngoại hối tăng mạnh; Ước các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2013 và tăng 2,9% so với kế hoạch năm 2014; Bội chi ngân sách được kiểm soát; Xếp hạng tín dụng được cải thiện và huy động thành công trái phiếu quốc tế với lãi suất thấp.
Những chuyển biến tích cực của nền kinh tế đã có tác động không nhỏ đến thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam năm 2014. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực trên thì nền kinh tế vẫn còn những khó khăn nhất định. Nợ xấu vẫn còn cao và chưa xử lý triệt để (mặc dù đã có cơ chế mua nợ của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam - VAMC). Bên cạnh đó, những vấn đề “nóng” khác như vấn đề Biển Đông và giá dầu xuống thấp cũng đã có tác động nhất định đến sự phát triển ổn định của TTCK.
Tăng trưởng và xác lập mặt bằng vững chắc
TTCK Việt Nam năm 2014 có diễn biến rất khả quan xét về phương diện tốc độ tăng chỉ số, mức độ ổn định, khối lượng giao dịch và phản ánh khá rõ nét những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế. Nếu như trong năm 2013, chỉ số VN-Index và chỉ số HNX-Index có diễn biến khác biệt và lệch nhau thì trong năm 2014, hai chỉ số này dao động tương quan với nhau. Thị trường có chiều hướng đi lên dù xen kẽ trong đó là những khoảng điều chỉnh giảm do tác động của vấn đề Biển Đông vào tháng 5/2014 và giá dầu quốc tế giảm mạnh vào tháng 11/2014. Chỉ số VN-Index đã lập đỉnh tại mức điểm 640,75 (ngày 3/9/2014) sau gần 6 năm đạt được, trong khi chỉ số HNX-Index cũng đã lập đỉnh tại mức điểm 92,99 (ngày 24/3/2014) sau đúng 3 năm. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm 2014, VN-Index đóng cửa ở mức 545,63 điểm, tăng 8,13% so với năm 2013. Chỉ số HNX-Index ở mức 82,98 điểm, tăng 22,32% so với năm 2013.
Thanh khoản thị trường tăng trưởng mạnh trong năm 2014 với quy mô giao dịch bình quân 5.500 tỷ đồng/phiên, tăng 104% so với năm 2013. Mức vốn hóa toàn thị trường đạt 1.128 tỷ đồng, tăng 179.000 tỷ so với năm 2013, đạt gần 31,28% GDP (tăng 18,15% so với năm 2013). Giá trị giao dịch tăng 2 lần so với năm 2013; tổng giá trị huy động vốn qua TTCK đạt khoảng 285.000 tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2013, trong đó, tổng giá trị huy động vốn thông qua kênh trái phiếu chính phủ đạt trên 248.000 tỷ đồng, tăng 37% so với năm 2013. Tổng số tài khoản giao dịch của nhà đầu tư là 1,4 triệu tài khoản, tăng 6% so với năm 2013. Giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài khoảng 14,4 tỷ USD, tăng khoảng 2,8 tỷ USD so với cuối năm 2013.
Các sản phẩm mới được triển khai
Bên cạnh việc triển khai sản phẩm ETF (hai quỹ sẽ vận hành trong năm 2014), cơ quan quản lý cũng đang tích cực nghiên cứu để có thể sớm triển khai thí điểm quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí bổ sung. Thêm vào đó, trên cơ sở Đề án về xây dựng và phát triển TTCK phái sinh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 366/QĐ-TTg ngày 11/03/2014, Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo Nghị định về chứng khoán phái sinh và TTCK phái sinh để trình Chính phủ. Đây là bước tiến quan trọng trong việc tạo ra hành lang pháp lý cho việc triển khai các sản phẩm mới, tạo ra công cụ phòng ngừa rủi ro cho nhà đầu tư, tăng sức hấp dẫn cũng như góp phần đưa TTCK Việt Nam phát triển ở một tầm cao mới.
Tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán đạt kết quả tốt
Việc tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán dựa trên các chỉ tiêu an toàn tài chính để tiến hành rà soát, đánh giá phân loại công ty chứng khoán (CTCK), trên cơ sở đó tiến hành xử lý theo hướng hợp nhất, sáp nhập, giải thể CTCK. Tính đến cuối năm 2014, đã có 20 CTCK chấm dứt và đình chỉ hoạt động, giải thể, hợp nhất, giảm số CTCK thua lỗ từ 60% xuống còn dưới 20%. Ngoài ra, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cũng đã thực hiện đánh giá, xếp loại các CTCK dựa trên quy chế CAMEL. Theo đó, đã phân loại các CTCK thành các nhóm để từ đó có phương án theo dõi, xử lý đối với từng nhóm và tiến hành kiểm tra đối với các CTCK nằm trong nhóm yếu kém để tiếp tục tái cấu trúc trong thời gian tới. Đối với các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công tác tái cấu trúc đã thực hiện tương đối rõ rệt, thay thế dần các quỹ đóng, quỹ thành viên bằng hệ thống các quỹ mở linh hoạt hơn và có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn, hoạt động minh bạch hơn. Đến cuối năm 2014, thị trường đã có 25 quỹ đầu tư chứng khoán, trong đó có 2 quỹ ETF, 15 quỹ mở, 8 quỹ thành viên với tổng giá trị vốn huy động trên 7.000 tỷ đồng.
Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước gắn với niêm yết
Năm 2014, việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg của ngày 15/9/2014 về cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thoái vốn gắn với niêm yết, đồng thời cho phép cơ chế DNNN được thoái vốn dưới mệnh giá và giá trị sổ sách đã tạo sự linh hoạt trong việc cải cách sắp xếp khoảng 432 DNNN cần phải CPH trong năm 2014-2015, góp phần hỗ trợ công tác huy động vốn, nâng cao sức cạnh tranh, tạo sự minh bạch của DN. Trong năm, UBCKNN đã xét duyệt 350 hồ sơ với tổng giá trị phát hành tăng vốn khoảng 41.500 tỷ đồng. Hai Sở Giao dịch Chứng khoán cũng đã tổ chức được 86 phiên đấu giá với tổng giá trị bán được trên 11.000 tỷ đồng, tăng gấp 4 lần so với 2013. Trong đó, có 3 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã thực hiện IPO trên các Sở Giao dịch Chứng khoán và lộ trình gắn với đưa vào giao dịch trên thị trường tập trung nhằm tạo ra sự minh bạch là Tập đoàn Dệt may (Vinatex), Tổng Công ty hàng không Việt Nam (VietnamAirlines), Tổng Công ty Khí đạm Cà Mau.
Giải pháp trong năm 2015
2014 là năm TTCK Việt Nam có nhiều thăng trầm, chịu nhiều các tác động từ những yếu tố bên ngoài. Bên cạnh những kết quả đạt được như trên thì nhiều giải pháp phát triển TTCK được đưa ra từ đầu năm 2014 vẫn chưa được triển khai đồng bộ và nhiều giải pháp vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, soạn thảo (ví dụ như việc tăng tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài; phát hành cổ phiếu dưới mệnh giá, chế độ kế toán cho các loại hình quỹ mới...). Bên cạnh đó, tác động của kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro (bất ổn khu vực Biển Đông; vấn đề Ukraine; diễn biến giá dầu quốc tế…) và mức độ hồi phục của thị trường bất động sản; vấn đề xử lý nợ xấu ngân hàng và kiểm soát chặt chẽ cấp tín dụng ngân hàng cho TTCK (Thông tư 36/2014/ TT-NHNN) cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến hoạt động TTCK trong năm 2015.
Để thúc đẩy TTCK tiếp tục phát triển ổn định, bền vững, thu hút nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư nước ngoài, cơ quan quản lý sẽ phối hợp với các thành viên thị trường triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm cho TTCK thông qua việc: (1) Xây dựng cơ chế phát hành cổ phiếu dưới mệnh giá; (2) Giám sát xử lý các DN chào bán cổ phiếu ra công chúng không đưa cổ phiếu vào giao dịch trong vòng 01 năm; (3) Khuyến khích DN cung cấp thông tin bằng tiếng Anh và xây dựng báo cáo phát triển bền vững; (4) Xây dựng cơ chế và lộ trình thực hiện Quản trị rủi ro cho các công ty niêm yết; (5) Hoàn chỉnh pháp lý để sớm đưa vào vận hành các sản phẩm cơ cấu (Covered Warrant; NVDRs và các sản phẩm Hedge); (6) Xây dựng pháp lý, hệ thống công nghệ thông tin và các hệ thống phụ trợ để sớm đưa các sản phẩm phái sinh (Index Futures và Bond Futures) vào hoạt động.
Hai là, kích cầu và khơi thông dòng vốn trên cơ sở: (1) Triển khai nâng hạng TTCK Việt Nam trên bảng MSCI; (2) Nâng tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng tại các DN niêm yết có sở hữu nhà nước; (3) Rà soát, điều chỉnh và có cơ chế kiểm soát vốn từ ngân hàng sang TTCK để đảm bảo an toàn hệ thống, hạn chế sở hữu chéo giữa các định chế ngân hàng và chứng khoản, bảo hiểm, đặc biệt trong mô hình mẹ - con; góp phần thúc đẩy tái cấu trúc và tăng vốn ngân hàng thương mại; (4) Nâng cao ý thức công bố thông tin của các DN và nhà đầu tư thông qua việc đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật chứng khoán và TTCK tăng cường hiểu biết cho nhà đầu tư và DN; (5) Phát triển các định chế đầu tư chuyên nghiệp và xây dựng các quy định về xếp hạng tín nhiệm, thiết lập tổ chức định mức tín nhiệm của Việt Nam; (6) Nghiên cứu xây dựng Quỹ bảo vệ nhà đầu tư trong trường hợp các tổ chức trung gian tài chính giải thể, phá sản để đảm bảo tài sản cho nhà đầu tư; (7) Xây dựng các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán các các loại hình sản phẩm mới (như việc cho các sản phẩm phái sinh được hạch toán theo giá thị trường); (8) Tham gia đầy đủ các nguyên tắc của hội viên đối với Tổ chức Quốc tế các ủy ban chứng khoán (IOSCO) mà Việt Nam là thành viên cũng như tham gia thành viên các tổ chức quốc tế khác về TTCK; (9) Phối hợp với các tổ chức quốc tế để tổ chức các Diễn đàn đầu tư tại Việt Nam và nước ngoài để xúc tiến và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là, tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán và hiện đại hóa cấu trúc thị trường theo hướng: (1) Tiếp tục hợp nhất, giải thể, phá sản các CTCK yếu kém, thua lỗ dựa trên nền tảng các chỉ tiêu an toàn tài chính; (2) Cho phép tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài mua để sở hữu đến 100% CTCK trong nước; (3) Hợp nhất các Sở giao dịch Chứng khoán và phát triển, phân định các khu vực thị trường: Thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và hình thành thị trường sản phẩm phái sinh để nâng cao vị thế của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam trong khu vực ASEAN; (4) Hoàn thiện đầu tư công nghệ thông tin cho toàn thị trường theo hướng hiện đại, thống nhất; (5) Nghiên cứu hệ thống vay/cho vay chứng khoán mục đích để phục vụ thanh toán bù trừ; xây dựng hệ thống phục vụ các sản phẩm phái sinh; (6) Đào tạo, tuyên truyền quảng bá về thị trường và các sản phẩm mới.