Thúc đẩy cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên ở Việt Nam
Chi trả cho Dịch vụ Hệ sinh thái (PES) đã được công nhận rộng rãi như một công cụ chính sách thành công để quản lý tài nguyên thiên nhiên tại hơn 60 quốc gia. Các chương trình này đã được thực hiện cho nhiều dịch vụ hệ sinh thái khác nhau trên toàn cầu, bao gồm bảo tồn đa dạng sinh học, dịch vụ lưu vực sông, cô lập carbon và danh lam thắng cảnh. Tổng số tiền chi trả hàng năm cho các chương trình PES trên toàn thế giới vượt quá 36 tỷ USD.
Ngày 13/6/2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với UNDP tổ chức Hội thảo kỹ thuật "Đánh giá và thúc đẩy chi trả dịch vụ hệ sinh thái tại Việt Nam". Tại hội thảo, nhóm nghiên cứu của UNDP và Viện Chiến lược, Chính sách, Tài nguyên và Môi trường đã trình bày báo cáo cơ sở về xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên cấp tỉnh và cấp cơ sở, cũng như chuẩn bị dự án thí điểm cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, cô lập và lưu trữ carbon trong các hệ sinh thái biển và đất ngập nước.
Hội thảo có sự tham dự của đại diện các tổ chức, bao gồm Bộ Tài nguyên và Môi trường, các viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế (WWF, USAID), các vườn quốc gia và các tổ chức phi chính phủ. Hội thảo nằm trong dự án “Mạng lưới đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái” (BES-Net) giai đoạn II. BES-Net là một sáng kiến hợp tác giữa UNDP, UNEP-WCMC và UNESCO, được hỗ trợ bởi Sáng kiến Khí hậu Quốc tế (IKI) của Chính phủ Đức và SwedBio. Dự án nhằm mục đích thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững các dịch vụ hệ sinh thái để tăng cường khả năng phục hồi của Trái đất và phúc lợi của con người.
Tại Việt Nam, việc thực hiện thành công chi trả dịch vụ môi trường rừng đã góp phần tăng nguồn lực tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng trong nhiều năm qua. Các bài học kinh nghiệm từ dịch vụ môi trường rừng tạo cơ sở để nhân rộng các cơ chế tương tự cho các hệ sinh thái khác, bao gồm cả môi trường biển và đất ngập nước.
Mặc dù Việt Nam đã thực hiện các sáng kiến "giống như PES" đối với các hệ sinh thái biển và đất ngập nước, nhưng hiện tại vẫn chưa có chi trả toàn diện cho các dịch vụ hệ sinh thái đối với các môi trường này. Một số ứng dụng thực tế bao gồm phí tham quan các khu bảo tồn biển và đất ngập nước, mô hình đồng quản lý nguồn lợi thủy sản và phát triển các phương pháp nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường ở vùng ven biển với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các ngành liên quan.
Phát biểu tại hội thảo, ông Đào Xuân Lai, Trưởng ban Môi trường và Biến đổi khí hậu của UNDP Việt Nam cho biết: “Về vấn đề tài trợ cho đa dạng sinh học tại Việt Nam, UNDP đã triển khai các sáng kiến như tài trợ bền vững cho đa dạng sinh học, thiên nhiên - du lịch dựa vào quản lý thủy sản và tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy thực hiện cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên”.
Ông cũng nhấn mạnh về những đóng góp thiết thực để đạt được các mục tiêu đa dạng sinh học đặt ra trong Khung đa dạng sinh học toàn cầu tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học (COP15). Những nỗ lực này cần đến từ các nhà hoạch định chính sách và các tập đoàn, cá nhân, và các tổ chức đề xuất sáng kiến thúc đẩy các dịch vụ hệ sinh thái, góp phần tái tạo và phục hồi đa dạng sinh học và các hệ sinh thái ở Việt Nam.
GS., TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách, Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh tầm quan trọng của những đóng góp, ý kiến của các chuyên gia đối với kết quả nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách. Ông phát biểu: “Để nâng cao hơn nữa kết quả nghiên cứu và cung cấp tài liệu tham khảo tốt cho việc đề xuất cơ chế, chính sách của Viện về chi trả dịch vụ hệ sinh thái đối với các hệ sinh thái biển và đất ngập nước, rất mong các chuyên gia, nhà khoa học, quý vị đại biểu đóng góp, phản hồi về đề tài. kết quả nghiên cứu, đặc biệt là các kiến nghị đề xuất và kế hoạch triển khai sắp tới đảm bảo tính khả thi và hiệu quả”.
Báo cáo tổng kết và phân tích những kinh nghiệm và thực tiễn tốt nhất liên quan đến PES tại các quốc gia như Trung Quốc, Đông Phi, Châu Âu, Costa Rica và các mô hình thực tế tại Việt Nam; nhấn mạnh rằng sự thành công của các chương trình PES phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và có thể tối ưu hóa chi phí. Các chương trình này hoạt động tốt nhất khi các dịch vụ được xác định rõ ràng, những người hưởng lợi được tổ chức tốt và các cộng đồng quản lý tài nguyên và đất đai có quyền sở hữu rõ ràng và khung pháp lý vững chắc. Các hệ thống PES chủ yếu tập trung vào các dịch vụ hệ sinh thái/môi trường có giá trị cao cho người hưởng lợi, với việc cung cấp dịch vụ với chi phí thấp. Dịch vụ đầu nguồn, dịch vụ sinh thái rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, hấp thụ carbon và vẻ đẹp danh lam thắng cảnh là những mục tiêu chính của các chương trình PES trên toàn thế giới.
Báo cáo cũng cung cấp một số khuyến nghị chính trong khuôn khổ Dự án BES-Net Giai đoạn II. Các khuyến nghị này bao gồm xây dựng tiêu chí và phương pháp đánh giá dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước quốc gia, hỗ trợ đánh giá và đánh giá dịch vụ hệ sinh thái ở cấp cơ sở, lập bản đồ hiện trạng dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước ở Việt Nam, xây dựng hướng dẫn cho cấp tỉnh và cấp cơ sở, sáng kiến cơ chế chi trả, thí điểm chi trả dịch vụ hệ sinh thái đối với hệ sinh thái biển và đất ngập nước, hoàn thiện chính sách, quy định về chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, trọng tâm là hệ sinh thái biển và đất ngập nước.