Thúc đẩy xuất khẩu, tạo động lực tăng trưởng kinh tế
Năm 2024, vượt qua những khó khăn, thách thức, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi tích cực, gặt hái nhiều kết quả ấn tượng. Trong bức tranh chung đó, xuất khẩu là một trong những điểm sáng. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có những chia sẻ với Tạp chí Tài chính xoay quanh nội dung này.
Phóng viên: Xuất nhập khẩu được coi là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Bộ trưởng có thể khái quát những kết quả ấn tượng về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2024?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Năm 2024, trong một bối cảnh vĩ mô tích cực hơn so với năm 2023, cùng với sự vào cuộc mạnh mẽ của Chính phủ và các bộ, ngành cũng như những nỗ lực vượt khó của cộng đồng doanh nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2024 đã thể hiện rõ xu hướng hồi phục, tiếp tục đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tính đến hết năm 2024, xuất nhập khẩu năm 2024 ghi nhận nhiều điểm sáng:
Thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng ở mức cao với sự phục hồi tích cực của các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 ước đạt trên 786,1 tỷ USD, trong đó xuất khẩu dự kiến đạt 404,9 tỷ USD, tăng 14,1% so với năm 2023 và nhập khẩu ước đạt 381,2 tỷ USD tăng 16,8%. Xuất khẩu nông thủy sản tiếp tục là điểm sáng khi đạt mức tăng trưởng cao 20,2% với kim ngạch gần 39 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu rau quả tăng 27,1%, thủy sản tăng 12,2%, gạo tăng 23%. Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng cao với giá bán thuận lợi đã hỗ trợ tiêu thụ tốt đầu ra sản xuất nông nghiệp cho người dân.
Nhóm công nghiệp chế biến tiếp tục là động lực đóng góp chính vào kim ngạch xuất khẩu chung khi ước đạt kim ngạch 343,1 tỷ USD, tăng 14% so với năm trước. Các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực vốn gặp nhiều khó khăn trong năm 2023 đã có sự phục hồi tốt và quay trở lại đà tăng trưởng dương. Cụ thể, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 72,1 tỷ USD, tăng 25,8%; xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện ước đạt 54 tỷ USD, tăng 3,2%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác ước đạt 52,3 tỷ USD, tăng 21,3%; xuất khẩu dệt may ước đạt 36,8 tỷ USD, tăng 10,3%; giày dép các loại ước đạt 23 tỷ USD, tăng 13,5%; gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 16,2 tỷ USD, tăng 20,3%.
Thứ hai, hầu hết các thị trường xuất khẩu đã phục hồi và tăng trưởng tốt, các thị trường đã ký kết FTA với Việt Nam đều đạt tăng trưởng cao. Trong 11 tháng đầu năm, xuất khẩu sang Asean tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu sang EU và Anh lần lượt đạt mức tăng 18,4% và 19,5%, sang Australia tăng 24,6%. Xuất khẩu sang thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ đạt 109 tỷ USD, tăng 24%.
Thứ ba, cán cân thương mại năm 2024 tiếp tục ghi nhận xuất siêu với mức cao, ước đạt 23,8 tỷ USD. Năm 2024 sẽ tiếp tục là năm thứ 9 xuất siêu. Điều này có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực cho cán cân thanh toán, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Thứ tư, nhập khẩu được đảm bảo với cơ cấu phù hợp. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 381,2 tỷ USD, tăng 16,8% so với năm trước. Trong đó nhóm hàng cần nhập khẩu tiếp tục chiếm tỷ trọng cao 88,6%. Việc nhập khẩu các mặt hàng linh kiện, máy móc, nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất tăng trưởng trở lại cho thấy sự phục hồi của hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, cũng như những tín hiệu tích cực về các đơn hàng nhận được trong thời gian tới.
Thứ năm, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước cao hơn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Tôi cho rằng đây là tín hiệu thật sự đáng mừng khi tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp trong nước (20,7%) cao hơn khu vực FDI (12,8%). Điều này cho thấy năng lực sản xuất và xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước đã được cải thiện, tiến tới các sản phẩm có chất lượng và mặt bằng giá tốt và được sự đón nhận của người tiêu dùng trên thế giới đặc biệt đối với nhóm hàng ta vốn có lợi thế như nông thủy sản, dệt may, da giày, gỗ và các sản phẩm từ gỗ. Ngoài ra, sự phục hồi tốt hơn cũng cho thấy khả năng vượt khó, linh hoạt với các biến động vĩ mô của thị trường thế giới cũng ngày được nâng cao.
Phóng viên: Bộ Công Thương đã triển khai những giải pháp gì để xúc tiến thương mại cũng như thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do để mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Bộ Công Thương đã và đang đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại, trong đó tập trung thúc đẩy ở mức cao nhất chương trình chuyển đổi số và gắn với thương mại điện tử, kinh tế số. Hoạt động xúc tiến thương mại được đổi mới, trong đó chú trọng vào khai thác các thị trường mới ở Trung Đông, châu Phi, Nam Mỹ... song song với các thị trường trọng điểm; tăng cường tận dụng và khai thác cơ hội từ các thị trường có FTA nhằm mang tính bền vững, cân bằng hơn, đảm bảo thị trường ổn định, lâu dài cho hoạt động xuất khẩu, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế; ưu tiên triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại trực tiếp kết nối khách hàng phát triển thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng thế mạnh của Việt Nam như nông thủy sản, thực phẩm chế biến, da giày…
Bên cạnh các hoạt động xúc tiến thương mại tại nước ngoài, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu được thực hiện ngay tại Việt Nam cũng ngày càng khẳng định tính hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã. Các hội chợ, triển lãm đa ngành cũng như chuyên ngành có quy mô lớn, các hội nghị quốc tế ngành hàng xuất khẩu thế mạnh như: điều, hồ tiêu và gia vị, chuỗi sự kiện “Kết nối chuỗi cung ứng hàng hóa quốc tế 2024” (Viet Nam International Sourcing 2024)... đã thu hút sự quan tâm, tham dự của nhiều tổ chức thương mại quốc tế, đặc biệt là các tập đoàn phân phối lớn, các nhà nhập khẩu, mua hàng quốc tế đến Việt Nam.
Đối với công tác hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Công Thương trong năm vừa qua tiếp tục triển khai đàm phán, ký kết các liên kết kinh tế mới, các cơ chế hợp tác song phương và đa phương với các nước, các khu vực còn tiềm năng để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và mặt hàng xuất nhập khẩu. Cuối tháng 10/2024, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (CEPA) đã kết thúc đàm phán và được ký kết, nâng số lượng FTA đã ký kết lên 17. Việt Nam đang đàm phán 2 FTA và 1 Khung khổ kinh tế, gồm FTA với Khối EFTA (bao gồm 4 nước Thụy Sỹ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein), FTA ASEAN - Canada (ACaFTA) và Khung khổ kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương (IPEF). Đồng thời, Việt Nam tham gia đàm phán nâng cấp các FTA đã ký như Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc, Hiệp định về thương mại hàng hóa giữa ASEAN và Ấn Độ (AIFTA), Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Ngay sau khi công tác đàm phán, ký kết được thực hiện, Bộ Công Thương đã đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nội luật hóa các cam kết để cộng đồng doanh nghiệp có thể tận dụng ngay các ưu đãi mang lại từ các Hiệp định. Đồng thời, đa dạng hóa hình thức tổ chức tuyên truyền rộng rãi về các ưu đãi tại các Hiệp định FTA, trong đó đẩy mạnh ứng dụng môi trường Internet và các mạng xã hội.
Công tác đào tạo tập huấn để các doanh nghiệp có thể nắm bắt và tận dụng các cam kết tiếp tục được chú trọng. Bộ Công thương đã tiến hành đổi mới các chương trình đào tạo, tập huấn, đẩy mạnh ứng dụng các hình thức trực tuyến và các nền tảng mạng xã hội nhằm cung cấp tới các doanh nghiệp về cách thức tận dụng các cơ hội từ các Hiệp định FTA, trong đó làm rõ về các yêu cầu đảm bảo xuất xứ hàng hoá để được hưởng thuế quan ưu đãi. Bên cạnh đó, Bộ trưởng tiếp tục triển khai vận hành tốt hệ thống cấp Giấy chứng nhận xuất xứ qua Internet và cơ chế Tự chứng nhận xuất xứ; rà soát, đơn giản hóa quy trình cấp C/O; áp dụng khai báo C/O điện tử.
Phóng viên: Phòng vệ thương mại là một trong những thách thức mà doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt. Bộ Công Thương đã hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với vấn đề này ra sao?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Ngoài những lợi thế đặc thù của quốc gia đang phát triển, như giá nhân công rẻ, giá thành sản xuất thấp, thì việc hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế càng khiến hàng hóa Việt Nam trở thành mối đe dọa lớn cho ngành sản xuất trong nước của nhiều quốc gia nhập khẩu. Để hạn chế thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước, nhiều quốc gia tích cực hơn trong việc sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại. Số lượng vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng gia tăng. Nếu như giai đoạn 2001-2011 chỉ có 50 vụ, đến giai đoạn từ năm 2012 đến tháng 10/2024 đã tăng lên 214 vụ. Bên cạnh số lượng vụ việc phòng vệ thương mại ngày càng gia tăng, thị trường điều tra cũng ngày càng mở rộng.
Bên cạnh đó, phạm vi sản phẩm bị điều tra ngày càng đa dạng. Xu hướng điều tra cũng khắt khe hơn. Cơ quan điều tra nước ngoài ngày càng đưa ra yêu cầu cao trong nhiều khía cạnh đối với chính phủ, doanh nghiệp bị điều tra (thời hạn trả lời, yêu cầu bổ sung nhiều thông tin, khó xin gia hạn...). Phạm vi điều tra cũng ngày càng mở rộng, bao gồm cả các nội dung mới như điều tra xem xét phạm vi sản phẩm, điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.
Thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã chủ động làm việc với các nước đối tác để đạt được sự đồng thuận trong việc công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, yếu tố có tác động lớn tới các biện pháp phòng vệ thương mại mà các quốc gia áp dụng với hàng hóa của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã được 72 nền kinh tế khác công nhận là nền kinh tế thị trường, trong đó có các quốc gia lớn như: Anh, Canada, Mexico, Úc, Nhật Bản, Ấn độ, Hàn Quốc, New Zealand…
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã triển khai hàng hoạt các công tác hỗ trợ các Hiệp hội, ngành hàng, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại tại thị trường châu Á, châu Phi và châu Đại Dương; phối hợp với các cơ quan liên quan tham gia với tư cách một bên liên quan trong các vụ việc điều tra chống trợ cấp đối với Chính phủ.
Tại nhiều thị trường quan trọng như: Úc, Philippines, Indonesia… Bộ Công Thương cũng đã thành công trong việc bảo vệ các lập luận chứng minh Chính phủ không trợ cấp và không can thiệp vào thị trường để tạo ra lợi thế bất bình đẳng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; thường xuyên bám sát thông tin, quy trình điều tra của Cơ quan điều tra nước ngoài, từ đó cung cấp các thông tin theo yêu cầu và đưa ra các lập luận pháp lý phản bác các luận điểm thiếu căn cứ của Nguyên đơn hoặc hoặc các kết luận có khả năng vi phạm Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Cơ quan điều tra. Trong nhiều vụ việc, Cơ quan điều tra đã phải xem xét lại các kết luận hoặc kéo dài thời gian khởi xướng để tiếp tục bổ sung các chứng cứ theo yêu cầu của Bộ Công Thương.
Bộ Công Thương cũng chú trọng công tác tuyên truyền, đào tạo cho các bên liên quan, bao gồm cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội, ngành hàng, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu, đơn vị tư vấn. Mục đích của công tác này nhằm thường xuyên cập nhật các thay đổi trong pháp luật phòng vệ thương mại và thực tiễn áp dụng pháp luật phòng vệ thương mại của nước ngoài; nâng cao kiến thức và nhận thức về phòng vệ thương mại, giúp các bên liên quan phản ứng kịp thời và hiệu quả khi vụ việc phòng vệ thương mại diễn ra. Bộ Công Thương đã chủ động xây dựng Bản tin Phòng vệ thương mại và Cảnh báo sớm đồng thời khuyến nghị doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam theo dõi thông tin cảnh báo, nắm xu thế và tình hình các vụ việc phòng vệ thương mại liên quan đến mặt hàng mình sản xuất kể cả của các nước khác.
Ngoài ra, Bộ Công Thương theo dõi sát diễn biến giá cũng như tình hình nhập khẩu và rà soát định kỳ nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ trên nguyên tắc công khai, minh bạch, tuân thủ quy định pháp luật và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Phóng viên: Xin Bộ trưởng chia sẻ nhận định về những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam trong thời gian tới?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Trong thời gian tới, hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục có những thuận lợi và khó khăn đan xen.
Tình hình kinh tế thế giới khả quan hơn khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã đưa ra những thông điệp ngừng tăng lãi suất. Vấn đề hàng tồn kho cao tại các thị trường đang dần được khắc phục, đặc biệt tại các thị trường xuất khẩu chủ lực đã gặp những khó khăn trong năm 2023 như EU và Hoa Kỳ. Đối với Hoa Kỳ, các chỉ số tiêu dùng hồi phục đã trở thành yếu tố hỗ trợ quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cũng đã nâng cấp mối quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ, hứa hẹn sự phát triển bền vững cho quan hệ thương mại giữa hai nước.
Trong nước, Chính phủ đã vào cuộc mạnh mẽ với nhiều giải pháp hỗ trợ toàn diện cho nền kinh tế. Với vai trò là cơ quan chủ trì trong quản lý, điều hành hoạt động xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đã sớm nhận diện những khó khăn, rủi ro từ các thị trường xuất khẩu để tham mưu, đề xuất các giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu. Về phía cộng đồng doanh nghiệp, các doanh nghiệp với năng lực ngày càng được nâng cao đã có sự chủ động thích ứng tốt hơn với một thị trường biến động nhanh, khó lường.
Định hướng hội nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam thông qua đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nâng cấp các Hiệp định đã thực thi đã và đang tiếp tục mở ra các khu vực thị trường mới cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Việt Nam tiếp tục là điểm đến lý tưởng cho các hoạt động đầu tư nước ngoài và chuyển dịch sản xuất. Các dự án lớn được thực hiện đầu tư sẽ là nguồn lực mới cho xuất khẩu.
Tuy nhiên, kinh tế toàn cầu năm 2025 vẫn đối diện với nhiều rủi ro, khó đoán định. Xung đột Nga - Ukraine và Israel - Hamas vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc trong ngắn hạn. Những diễn biến khó lường của xung đột quân sự giữa các quốc gia sẽ dẫn tới các rủi ro tiềm tàng như đứt gãy chuỗi cung ứng, gián đoạn hoạt động vận tải quốc tế. Cuộc chiến chống lạm phát vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định, đặc biệt là chính sách tiền tệ của các quốc gia lớn. Vấn đề công suất dư thừa tại Trung Quốc hiện tại cũng sẽ gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường. Khi nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc dẫn tới nguy cơ nguồn hàng dư thừa với giá rẻ của Trung Quốc có thể được đẩy mạnh xuất khẩu sang các quốc gia khác. Việc Tổng thống Donald Trump thắng cử cùng với quan điểm cứng rắn “nước Mỹ trên hết” sẽ dẫn tới những diễn biến khó lường trong giai đoạn tiếp theo khi Hoa Kỳ có thể thực hiện các chính sách nhằm thu hút đầu tư quay lại Hoa Kỳ hay bảo hộ mạnh mẽ hơn cho sản xuất trong nước thông qua việc áp dụng các chính sách bảo hộ lên hàng hóa nước ngoài.
Đối với Việt Nam, quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn nhưng độ mở lại lớn, khả năng cạnh tranh và sức chống chịu trước các cú sốc từ bến ngoài còn hạn chế. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối mặt với những yếu tố đột xuất, bất ngờ vẫn tiềm ẩn rủi ro, khó dự báo; dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai diễn biến bất thường, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phóng viên: Trong bối cảnh đó, đâu là những trụ cột sẽ được Bộ Công Thương triển khai trong năm 2025 để tiếp tục duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Thứ nhất, các đơn vị của Bộ Công Thương sẽ chú trọng công tác thông tin thị trường. Bộ tiếp tục kịp thời thông tin với các Hiệp hội ngành hàng về những diễn biến của thị trường xuất khẩu để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất phù hợp, định hướng tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường; duy trì đều đặn các hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Bộ Công Thương sẽ chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại các khu vực thị trường thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình thị trường nước ngoài; các quy định, tiêu chuẩn, điều kiện của thị trường nước ngoài có thể tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và khuyến nghị đối với các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Thứ hai, thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh thực hiện thông qua dịch vụ công trực tuyến giúp tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ ba, tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, đẩy mạnh xuất nhập khẩu đối với các thị trường mới. Trong bối cảnh hoạt động thương mại quốc tế có nhiều yếu tố bất định, việc đa dạng hóa thị trường sẽ giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của các doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương đa dạng hóa thị trường của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19, khi các thị trường xuất nhập khẩu chủ lực của Việt Nam gặp bất lợi.
Thứ tư, đổi mới công tác xúc tiến thương mại, kết hợp xúc tiến thương mại truyền thống với hiện đại, gắn với thương mại điện tử, kinh tế số nhằm đa dạng hoá thị trường xuất nhập khẩu; chú trọng hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, thúc đẩy xuất khẩu bền vững các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý của Việt Nam.
Thứ năm, chú trọng công tác phát triển dịch vụ logistics; Bộ Công Thương tiếp tục nghiên cứu xây dựng Chương trình hành động thực hiện sau khi Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thứ sáu, tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển hoạt động thương mại biên giới bền vững thông qua thúc đẩy xuất khẩu qua các cửa khẩu biên giới theo hình thức chính ngạch, điều hành, khai thông hiệu quả hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!