Thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường châu Á
(Tài chính) 11 tháng năm 2013, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường châu Á đạt mức tăng trưởng đáng ghi nhận với mức 12,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tận dụng lợi thế, tranh thủ quan hệ hợp tác
Với khuôn khổ pháp lý thuận lợi, Việt Nam đang ngày càng thu hút được sự quan tâm của các DN Nhật Bản và Hàn Quốc, trong đó có các DN thương mại. Theo Bộ Công Thương, đây là một trong những lợi thế mà chúng ta cần tận dụng để đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước này.
Các DN Nhật Bản và Hàn Quốc cũng sẽ có lợi ích trong mối quan hệ hợp tác này thông qua việc đưa các chủng loại hàng hóa đa dạng của Việt Nam tiếp cận được với người tiêu dùng các nước này cũng như cộng đồng người Việt Nam tại đây.
Riêng đối với thị trường Hàn Quốc, theo Bộ Công Thương, trong bối cảnh Việt Nam và Hàn Quốc đang tiến hành đàm phán Hiệp định Thương mại tự do (VKFTA), chúng ta có cơ hội để trao đổi với phía Hàn Quốc về các biện pháp tăng cường khả năng tiếp cận của hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là hàng nông-lâm-thủy sản vào thị trường Hàn Quốc thông qua quá trình đàm phán.
Thông qua đàm phán, ta có thể đề nghị phía Hàn Quốc có sự hợp tác tích cực trong lĩnh vực vệ sinh kiểm dịch và tiêu chuẩn kỹ thuật, hướng tới việc hai bên công nhận các kết quả kiểm tra và giám định chất lượng của các cơ quan chức năng mỗi nước để giảm bớt tỷ lệ lấy mẫu kiểm tra trong các lô hàng xuất khẩu của Việt Nam, từ đó đẩy nhanh thời gian thông quan và tiết kiệm chi phí cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Đồng thời, chúng ta cũng có thể yêu cầu hai bên thống nhất một lộ trình để phía Hàn Quốc đưa dần và đẩy nhanh quy trình đánh giá rủi ro nhập khẩu đối với các loại trái cây và rau quả tươi của Việt Nam, tạo điều kiện gia tăng số lượng các sản phẩm nông sản của Việt Nam được phép nhập khẩu vào thị trường Hàn Quốc.
Tăng cường quản lý chất lượng hàng xuất khẩuDN chế biến xuất khẩu là khâu quan trọng trong việc đảm bảo hàng hóa xuất khẩu tuân thủ các tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường sở tại. Do đó, các DN phải nỗ lực để đảm bảo hàng hóa xuất khẩu đáp ứng và phù hợp với các tiêu chuẩn và yêu cầu được đưa ra.
Tuy nhiên, đặc tính của DN là muốn thu được lợi nhuận tối đa trên cơ sở đáp ứng mức chất lượng tối thiểu mà người tiêu dùng chấp nhận, nên vẫn có những trường hợp DN vì chạy theo lợi nhuận trước mắt mà sẵn sàng vượt qua ranh giới được phép. Do đó, trong công tác tăng cường quản lý chất lượng của các DN chế biến xuất khẩu, không thể thiếu được vai trò của các cơ quan Nhà nước nhằm quản lý, đảm bảo chất lượng trong sản xuất và kinh doanh cũng như đảm bảo các lợi ích lâu dài.
Bên cạnh công tác quản lý chất lượng của các DN chế biến sản xuất, cũng cần chú trọng đến công tác quản lý chất lượng của các hộ gia đình và DN nuôi trồng vì đây chính là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các DN chế biến xuất khẩu.
Ở khía cạnh vệ sinh kiểm dịch, nhìn chung, các thể chế thương mại đa phương và khu vực thừa nhận là việc nước nhập khẩu có quyền áp dụng các biện pháp vệ sinh kiểm dịch ở phạm vi đủ cần thiết để bảo vệ sức khỏe và tính mạng của con người cũng như các loài động vật và thực vật. Vì vậy cũng tồn tại khả năng các biện pháp này bị lạm dụng một cách quá mức cần thiết.
Do đó, các kết quả nghiên cứu khoa học trong quá trình đấu tranh chống lại các rào cản thương mại của thị trường, đặc biệt là đối với các quy định liên quan đến lượng tồn dư hóa chất, kháng sinh, chất phụ gia... có trong sản phẩm xuất khẩu là rất quan trọng.
Các biện pháp phi thuế quan của Nhật Bản và Hàn Quốc thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều luật và quy định khác nhau, do nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau quản lý và thực thi.
Kinh nghiệm xử lý một số vụ việc có liên quan đến các biện pháp phi thuế quan của hai nước này đã cho thấy mối quan hệ hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền là rất quan trọng khi cần giải quyết các vướng mắc phát sinh, góp phần tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng khả năng tiếp cận đối với thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp vẫn là dựa trên quy định luật pháp, trong đó cơ sở đầu tiên là các quy định của hệ thống thương mại đa phương và cam kết của hai nước trong các điều ước quốc tế song phương và khu vực, sau đó là luật lệ và quy định của nước sở tại.
Do vậy, một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, mang tính xây dựng với các cơ quan chức năng của nước đối tác dưới hình thức trao đổi thông tin và cùng nhau tìm ra những giải pháp phù hợp với quy định và lợi ích của mỗi bên sẽ tạo thuận lợi hơn cho quá trình giải quyết những vướng mắc phát sinh.