Thuế tài nguyên tạo nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế

PV. (t/h)

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách nhằm quản lý, bảo vệ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài nguyên, trong đó bao gồm chính sách thuế tài nguyên. Chính sách thuế tài nguyên được xác định là một công cụ tài chính quan trọng và hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân theo hướng phát triển bền vững.

Ở Việt Nam, thuế tài nguyên quy định mức thuế suất tương ứng với mức độ khan hiếm hay mức độ gây ô nhiễm môi trường của từng loại tài nguyên.
Ở Việt Nam, thuế tài nguyên quy định mức thuế suất tương ứng với mức độ khan hiếm hay mức độ gây ô nhiễm môi trường của từng loại tài nguyên.

Tại Việt Nam, chính sách thuế tài nguyên hiện hành được thực hiện theo Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 25/11/2009 tại kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Sau hơn 14 năm thực hiện, Chính sách thuế tài nguyên đạt được những kết quả tích cực, thể hiện vai trò quan trọng trên các mặt của kinh tế - xã hội, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Cụ thể, thuế tài nguyên tạo nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế. Tài nguyên, nhất là những tài nguyên không tái tạo là nguồn lực của mỗi quốc gia, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế.

Thông qua công cụ thuế tài nguyên, Chính phủ phân phối lại một phần nguồn lợi tài chính từ các tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác, kinh doanh khoáng sản, điều tiết số tiền thu được từ thuế tài nguyên vào đầu tư cho mục đích công cộng. Theo số liệu về thu ngân sách nhà nước hàng năm của Bộ Tài chính, số thu thuế tài nguyên bình quân giai đoạn 2011-2021 khoảng gần 39 nghìn tỷ đồng/năm, chiếm bình quân khoảng 3,7% tổng thu NSNN.

Theo Luật Ngân sách nhà nước, thuế tài nguyên (trừ dầu thô) là khoản thu điều tiết 100% cho ngân sách địa phương. Đây là nguồn lực quan trọng đối với ngân sách địa phương để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội tại địa phương, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần người dân, phát triển kinh tế tại các địa phương có tài nguyên được khai thác. Như vậy, có thể nói, thuế tài nguyên qua thời gian thực hiện đã thể hiện vai trò là một nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, thuế tài nguyên là công cụ hiệu quả để nhà nước quản lý, bảo vệ tài nguyên quốc gia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi một quốc gia trên thế giới. Thế nhưng cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và công nghiệp khai khoáng, nhiều loại tài nguyên đang đối mặt với nguy cơ cạn kiệt, trong đó có những tài nguyên tích lũy trong hàng tỷ năm và không có cách nào tái tạo được.

Sự suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên đang diễn ra với mức độ nghiêm trọng, đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng các chính sách can thiệp của Nhà nước, trong đó chính sách thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính quan trọng.

Thông qua việc thu thuế tài nguyên mà Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tài nguyên thiên nhiên, kiểm soát mức độ khai thác tài nguyên thiên nhiên, góp phần khuyến khích việc khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng với hơn 5.000 điểm mỏ của 60 loại khoáng sản, trong đó, một số khoáng sản quan trọng có trữ lượng tương đối lớn. Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), với tốc độ khai thác tài nguyên như giai đoạn vừa qua, nhiều loại khoáng sản của Việt Nam sẽ cạn kiệt trong tương lai rất gần.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển kinh tế thường đi kèm với sự tàn phá nghiêm trọng môi trường sinh thái. Những năm gần đây, suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm bộc lộ rõ tính thiếu bền vững của mô hình kinh tế “tăng trưởng trước, làm sạch sau” của nhiều nước trên thế giới. Điều này khiến cho xu hướng phát triển kinh tế bền vững, ít gây ô nhiễm môi trường ngày càng được quan tâm và trở thành một trong những ưu tiên của nhiều quốc gia. Bởi vậy, chính sách thuế tài nguyên là một trong những công cụ quản lý của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững, hạn chế gây ô nhiễm môi trường.

Ở Việt Nam, thuế tài nguyên quy định mức thuế suất tương ứng với mức độ khan hiếm hay mức độ gây ô nhiễm môi trường của từng loại tài nguyên. Chính sách thuế tài nguyên có khả năng tác động, định hướng nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp sử dụng năng lượng sạch hơn, giảm phát thải, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại để tiết kiệm nhiên liệu, hạn chế xả thải, hoặc chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo, thân thiện hơn với môi trường.

Với vai trò quan trọng của tài nguyên trong nền kinh tế thị trường, nhiều tổ chức, cá nhân đã tham gia vào việc khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên và thu được nhiều nguồn lợi tài chính từ việc khai thác tài nguyên, từ đó làm gia tăng khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp xã hội. Theo đó, Nhà nước sử dụng công cụ thuế để can thiệp vào quá trình phân phối thu nhập, góp phần đảm bảo công bằng, ổn định xã hội. Mang đầy đủ chức năng của thuế, thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính quan trọng để phân phối lại thu nhập, của cải, đảm bảo sự công bằng cho xã hội.

Thông qua việc thu thuế đối với sản lượng tài nguyên khai thác, thuế tài nguyên là chi phí đầu vào ảnh hưởng tới lợi nhuận của nhà đầu tư, do đó có tác dụng điều tiết thu nhập từ các nhà đầu tư hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản về ngân sách nhà nước. Từ đó, Nhà nước sử dụng nguồn thu từ thuế tài nguyên để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cải tạo môi trường, phục vụ an sinh xã hội. Như vậy, có thể thấy thuế tài nguyên đã góp phần khắc phục khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường về chênh lệch mức sống và thu nhập, đảm bảo cho mọi người dân đều được chia sẻ, thụ hưởng các thành quả phát triển kinh tế đất nước.

=